Tôi không có ý định tìm kiếm lại bạn bè sau những năm chiến tranh. Ngày nay, không một ai lại có đủ điều kiện để thực hiện cái điều viển vông đó. Nhưng vừa rồi, nghề làm báo đã đưa tôi đến một miền của tỉnh N. Tôi vốn có định kiến với đất đai và khí hậu vùng này. Có gì đâu, liên tiếp là đồi trọc bỏ hoang và những triền núi đá khô khốc dường như không có sự sống. Nhưng hôm ấy, vừa bước khỏi chiếc xe con bịt bạt tù mù, tôi như đang được đứng ở một thế giới khác lạ. Buổi sáng, ra đi, trời Hà Nội có mưa và se lạnh. Ngay phút đầu tiên đặt chân xuống vùng này, tôi đã phải bỡ ngỡ trước bầu trời cao xanh, khô ráo và ánh nắng vàng rực rỡ. Cái thứ nắng mới đầy háo hức và ấm áp. Lại một lần nữa tôi ngạc nhiên. Không ngờ tỉnh N. lại có một nơi đồi núi, ruộng đồng tươi xanh và cảnh vật phóng khoáng như vậy. Dãy nhà được dựng trên vùng đồi cao, nhìn xuống là cánh đồng mênh mông, xa hơn là con sông, xa tít tắp phía chân trời một vệt dài xanh mờ, dường như đó là dãy Trường Sơn. Vẻ đẹp tôi cảm nhận được lúc đó cũng mang đầy tính hòa sắc. Nắng thì vàng, nhà cửa, tường vôi trắng xoá, mặt đồi rộng màu đỏ thẫm như đất cao nguyên. Tất cả như được bê đặt vào cái nền xanh ngắt của thảm thiên nhiên, cỏ cây và lúa.
Tôi và anh bạn đi cùng rảo chân xem khắp lượt cảnh vật. Chúng tôi dừng lại trước dãy nhà được xây cất cho khu gia đình. Tại đây, những chiếc dây phơi cong xuống nặng trĩu quần áo.
Trong vườn, những bụi mía mập mạp, những cây chước to béo như muốn khoe độ phì nhiêu và sức sống mãnh liệt của vùng đất đỏ. Chỗ chúng tôi dừng lại sau cùng là cửa hàng bách hoá của nông trường. Đó là ngôi nhà cũ ba gian, nhưng do được quét vôi nên trông vẫn thấy mới mẻ. Vị trí này đông người hơn cả. Người lớn và trẻ con, người mua hàng và người không mua hàng, ai cũng muốn ngó xem có thứ gì mới không Chúng tôi bước vào nhà. Có hai cô gái đang ướm thử chiếc áo vừa cười vừa thì thào trao đổi:
– Cho em đổi một chiếc khác chị ạ – Một trong hai cô nói.
– Thế các cô có mua không mà đổi đến lần thứ ba rồi đấy.
– Có chứ ạ.
Tôi nhìn người phụ nữ. Mãi lúc này tôi mới ngước nhìn chị. Và chẳng lâu la gì, tôi nhận ra ngay chị là cô y sĩ của tiểu đoàn tôi cách đây hơn mười năm. Người con gái này vẫn không khác đi nhiều lắm. Trời phú cho cô nước da trắng trẻo, hơn mười năm đi qua, làn da vẫn trắng và vẻ mặt vẫn đầy đặn. Dáng người của cô vẫn cân đối, ngực vẫn gọn gàng như chưa một lần sinh nở. Tôi chỉ nhận ra cô khác trước một chú ở chỗ hình như cô ít cười, mặt đượm một vẻ nghiêm trang. Đó là dấu hiệu đứng đắn do tuổi tác mang lại.
Tôi gọi cô:
– Cô Tình ơi… có phải Tình không?
Người phụ nữ nhìn tôi, ánh mắt vẫn thản nhiên như nhìn khách hàng của mình. Một lát sau đôi mắt ấy như chợt sáng loé lên. Cô reo lên một tiếng rồi mặt bỗng tái ngắt.
Năm tháng qua đi quá nhanh. Chính tôi cũng đã quên rằng vùng nông trường đẹp trên cao nguyên này lại là quê hương của Tình. Tôi chưa quên cô. Có thể nói cô là toàn bộ cái thời tuổi trẻ của tôi. Cái tuổi vừa bước vào mười tám, đôi mười, bắt đầu biết nhận ra vẻ đẹp của những cô gái thì lại phải dồn cục lại thành hàng chục tiểu đoàn sống trong rừng núi, sống ở chiến trường. Tôi và hàng trăm đồng đội của tôi, trong nhiều năm chỉ được tiếp xúc với bảy cô gái phục vụ tại đơn vị. Trong cái thế giới thật hạn hẹp ấy, Tình trở thành người đẹp, nhân vật trung tâm, và thành một cái gì đó lớn lao hơn thế rất nhiều. Không thiếu gì các chàng trai chúng tôi đã thầm yêu Tình, viết thư, gặp mặt, tặng quà. Tất nhiên loại người nhút nhát như tôi, cũng chỉ dám ôm ấp một tình cảm trìu mến, mãi mãi không được nói ra khỏi miệng, viết ra thành chữ.
Ít nhất cũng được hai năm như thế, hai năm Tình không thuộc về ai. Và các câu chuyện chúng tôi kể cho nhau nghe, sau một chuyến ô tô vượt trọng điểm đưa hàng tới mặt trận trở về thường một nửa phải liên quan tới bà chúa rừng ấy. Và thật diễm phúc cho ai, trong chuyến hàng đi vào, được cô gái đẹp nhất cung đường ấy đi “hộ tống” lại ngồi trên xe của mình.
Cuối năm bảy hai, đến lượt tôi có được cái may ấy. Tiểu đoàn phân công Tình đi công tác với đại đội xe của tôi. Đồng chí đại đội trưởng tính đi tỉnh lại, cuối cùng xe tôi được chở Tình đi suốt dọc đường. Sở dĩ anh cắt cử như vậy bởi trong ba chục chiếc ô tô tải, cái Jin củạ tôi đã mát máy lại còn nguyên kính chắn gió.
Tình thật hay cười. Mỗi một lúc nhoẻn miệng cười, gương mặt cô sáng bừng lên. Lạ thay, nụ cười của cô thay cho mọi lời chào hỏi. Chuẩn bị lên đường, Tình đèo túi thuốc, đội mũ sắt đi ra bãi xe. Cô vừa đi vừa nhìn biển số của từng chiếc ô tô một, đến trước đầu xe của tôi, cô dừng lại. Thấy tôi quay nhìn chưa kịp hỏi, cô đã cười.
– Tình lên xe đi!
Tôi mời. Cô gái bước lên ca bin, đặt túi thuốc, khẽ lấy cành lá phẩy đệm ngồi, thoáng nhăn mặt:
– Chao ôi, xe của anh hôi qua. Toàn mùi nước điếu.
Tôi đỏ mặt. Biết có Tình trên xe, suốt buổi sáng tôi đã phải lau chùi ca bin nhưng vẫn quên gửi chiếc điếu cày sang xe khác. Lúc ấy tôi nghĩ: có vứt điếu cày đi chăng nữa, khói thuốc lào và nước điếu bao nhiêu ngày vẫn ám chặt vào ca bin rồi. Tôi im lặng nổ máy và đưa xe ra cửa bãi, chuẩn bị xuất phát.
Đêm phủ xuống những cánh rừng của mặt trận. Vừa ra đến đường lớn, tôi tăng tốc. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã thấy thấp thoáng chiếc xe trước như đang bơi trong dòng sông bụi. Tôi ghìm bớt tốc độ, cho đến lúc chỉ còn nghe tiếng dây xích cửa của chiếc ô tô chạy trước đập loảng xoảng xa xa.
Tôi đã lấy lại được tự chủ. Tôi nghĩ như thế bởi tôi đã nói chuyện với Tình không những lưu loát mà còn biết nói như thế nào cho khỏi vô duyên. Vào đúng cái lúc câu chuyện đang đà thân mật, thì có tiếng máy bay ào qua đầu. Tiếng động cơ gầm rất mạnh, tôi biết chiếc máy bay xà thấp.
Chỉ tích tắc sau đó, một chùm đèn dù ba chiếc bật sáng. Đúng ra thì ngay lập tức, tôi phải rẽ xe vào rừng tìm lấy một con đường tránh. Tôi cũng thoáng nghĩ đến điều đó, điều mà trăm nghìn thằng lái xe cũng như thủ trưởng các đơn vị đã chọn là cách xử lý tối ưu. Và chỉ có làm theo cách đó, xe, cũng như người, và hàng hoá mới có cơ hội an toàn.
Tôi đã không xử trí như thế. Chỉ có ma quỷ mới có thể hiểu tại sao lúc đó tôi lại làm như vậy. Tôi đẩy cần số vào tốc độ cao nhất rồi tăng ga đột ngột. Thấy tôi làm động tác đó, Tình chọn tư thế ngồi và bám thật chắc vào tay cốp. Cô thoáng nhìn tôi như muốn xem xét thái độ và nét mặt của tôi lúc đó. Tôi tỏ ra hết sức tự chủ. Khéo không thì văng ra ngoài đấy nhé!
Chiếc ô tô của tôi lúc đó đã ở tốc độ đáng sợ. Tôi lượn vào đường vòng, rồi lấy đà vượt đỉnh dốc. Tôi đi tốc độ số năm đến đỉnh đèo, tiếng máy mới có vẻ đuối sức, tôi vội đưa cần sốtắt về số ba, chiếc ô tô lại ào vượt lên. Trên con đường xuống dốc, tôi cho xe chạy tốc độ cao, chưa bao giờ tôi chạy xe nhanh như vậy. Tất nhiên chiếc phản lực Mỹ có trang bị khí tài hiện đại, lại có một tốc độ linh hoạt, chẳng chịu thua chiếc ô tô đang bò dưới mặt đất. Dọc con đường tuyến và theo vệt bụi trắng xóa, chiếc phản lực đuổi theo đến kiệt cùng. Thành thử tôi tới đâu, pháo sáng từ máy bay thả vung theo đó. Tôi đoán sở dĩ khi đó chiếc phản lực vẫn chưa quyết định tặng tôi một tràng rốc két bởi tên phi công muốn đùa giỡn với tôi trước lúc nướng chiếc xe trong độ nóng hàng nghìn độ của lửa hỏa tiễn. Càng chạy, càng không thấy xe trước, tôi biết họ đã tìm đường tránh vào chân núi.
Tôi nhận ra mình rất bình tĩnh. Còn Tình, cô hoàn toàn im lặng, phụ thuộc vào tôi. Tôi rất muôn tách xe khỏi con đường lớn trống trải và bụi bặm này, nhưng sợ làm điều đó trước mặt Tình, cô lại sẽ coi tôi là một thằng hèn nhát.
Đến lúc xuống đoạn dốc gần như thẳng đứng, chiếc xe như bay trong không gian. Với cảm giác của người cầm vô lăng, tôi biết, đã có nhiều lúc, lốp xe không còn bám vào mặt đất. Tôi ngước nhìn Tình. Lúc này cô đã hoảng sợ. Hai tay bám cửa rất chắc, mặt như được làm bằng sáp ong. Cho đến lúc qua đoạn cua tay áo quen thuộc, theo đà ly tâm, xe của tôi đã bay khỏi tim đường ít nhất hơn chục mét. Tôi ném xe khỏi đường, còn chiếc phản lực lại lầm tưởng tôi vẫn chạy, thả đón pháo sáng ở phía trước. Tôi bị xe dằn ngất đi trong ca bin, còn Tình đã bị ném ra bãi cỏ vào lúc nào không rõ.
*
Sau vụ đó, tôi không những không bị kỷ luật mà còn được mọi người cho qua. Ai cũng an ủi tôi: chiến trường như vậy thường. Nhưng với tôi, qua sự kiện xe đổ ấy mới có dịp để tôi thấy mình kém cỏi. Tại sao tôi lại có thể sĩ diện một cách ấutrĩ như vậy? Nếu tôi có khả năng được bà chúa rừng ấy để mắt tới thì cứ gì tôi phải tỏ ra dũng cảm dở hơi để rồi đua tốc độ với phản lực đến nỗi đổ kềnh xe ra rừng? May sao tôi cũng như Tình chỉ bị giáng một đòn nhừ tử mà không hề gãy xương giập đầu. Những ngày đầu, tuần đầu, trông thấy mặt tôi, Tình cố ý lảng tránh. Cô ghét tôi vì đã cho cô một vố suýt chết. May thay thời gian đi qua, kéo theo cả nỗi bực mình ấy của Tình. Gặp tôi cô đã cười. Còn tôi, tự thừa nhận là kẻ đã ngã ngựa trong cuộc đua vô tình đến với tình yêu ấy. Tôi hoàn toàn không xứng đáng là loại người để cho Tình chọn làm đối tượng.
Đó là những ngày tôi bắt đầu nghe được tin lõm bõm ởđâu đó, rằng tiểu đoàn trưởng Oanh đang có ý muốn tấn công cô Tình. Nhưng sự đời oái oăm và rắc rối lại không thuận buồm xuôi gió như vậy. Cái anh chàng người Hà Nội vừa đẹp trai, lại vừa có quyền đó nghe đâu không lọt mắt bà chúa rừng của chúng tôi. Nếu sự việc đã diễn ra đúng như lời đồn đại thì Oanh đã từng gặp riêng Tình nhiều đêm ở nhà, cũng như theo xe đi chỉ huy trên đường với đơn vị, nhưng không ăn thua. Và có một phút nào đó do bốc lên, Oanh đã từng hứa, nếu nhận lời yêu anh ta, cô có thể sẽ được vào Đảng, được đi học thêm đại học và được ra miền Bắc. Theo lời kể lúc đó, Tình đã đứng hẳn dậy. Mặt cô đỏ lên và thoáng một nét bất bình, cô đã nói với Oanh một câu sâu cay kiểu phụ nữ:
– Tôi không tin rằng những lời vừa rồi là của anh, một người chỉ huy.
Khuôn mặt thanh nhỏ của cái nhìn đầy ẩn ý của Oanh trơ ra trong một giây lát. Sự phản ứng của cô gái tuy không mạnh, không làm cho Oanh phải xấu hổ, nhưng anh đã bị cô từ chối một cách thẳng thắn. Không ai có thể đoán biết được trong bộ óc tinh khôn và từng trải kia sự căm tức đã diễn ra như thế nào.
Đối với chúng tôi, Oanh luôn luôn là một tiểu đoàn trưởng ít lời, tế nhị và dứt khoát. Anh có dáng người nhỏ, trắng trẻo, mặt tròn như một thư sinh. Không ai có thể ngỡ được người tiểu đoàn trưởng ấy lại đã từng đi từ cấp binh nhì lái xe leo lên đến chức đại úy tiểu đoàn trưởng. Ở đơn vị tôi, anh khét tiếng là con người gan góc và độc đoán.
Điều đó hơi ngược với vẻ mặt trẻ trung, sáng sủa của Oanh. Đơn vị tôi không ai biết năm đó Oanh đã qua tuổi ba mươi tư. Mọi người đều nghĩ tiểu đoàn trưởng của mình chắc là dưới ba mươi gì đó. Cuộc đời, chuyện riêng tư của Oanh, như được cất giấu trong một căn phòng luôn luôn đóng kín cửa, chẳng ai có tài gì mở được. Và hàng ngày chúng tôi chỉ được tiếp xúc với Oanh qua điều hành công việc. Tóm lại, anh là một người chỉ huy có tài, giỏi về kỹ thuật, một tay lái cừ, một con người tinh nhanh đến mức không một chiến sĩ nào dám dối trá, luôn có một thái độ nhã nhặn nhưng vô cùng dứt khoát.
Buồn thay chỉ sau cuộc nói chuyện thẳng thừng giữa Oanh và Tình được một tuần, thì một cái tin mới bùng ra. Tình không yêu Oanh mà lại yêu cậu Tuấn, người trong tiểu đội tôi. Đôi trai gái ấy đến với nhau thật bí mật, chưa ai bắt gặp họ đi chơi ngoài rừng. Vả chăng mỗi lần Tình có việc đi phát thuốc, tiêm phòng, ngồi giữa đám đông, nụ cười duyên dáng của cô có dành cho riêng một ai đâu? Chẳng bao lâu cả tiểu đoàn đều biết đến mối tình độc đắc đó.
Mọi người có vẻ ngần ngại thay cho họ, không ai trong chúng tôi mà không nghĩ: Oanh có dùng quyền hành gì can thiệp vào cái tổ chim đang được hình thành đó không? Chúng tôi chăm chú theo dõi diễn biến từng ngày xảy ra trong tiểu đoàn. Mọi người đều nhận ra: tiểu đoàn trưởng Oanh gầy rộc đi. Ánh mắt của anh như lùi thật sâu vào trong. Anh vẫn sống lẳng lặng, lúc nào rỗi rãi, lại nằm trên giường ghé sát tai vào chiếc ra-đi-ô nghe tin tức.
*
Cuối năm đó, có khá nhiều sự kiện phân tán anh em chúng tôi. Ba đợt B.52 giáng trúng cánh rừng đơn vị đóng quân. May thay, cả bãi xe chỉ còn lại năm chiếc hư hỏng, không thể chạy trên con đường bốc cháy. Số xe tốt và phần đông chiến sĩ lái xe đi trên đường. Dãy nhà lợp giấy dầu chỉ phút chốc đã tan thành tro bụi.
Đúng góc kê giường của tiểu đoàn trưởng Oanh là hố một quả bom tấn vừa rộng vừa sâu hoắm. Căn nhà nhỏ, xinh xắn bằng nứa của Tình và các cô gái phục vụ, bị hơi bom bê gọn đặt giữa lòng suối. Toàn bộ mặt rừng nơi đơn vị đóng quân, khi chúng tôi trở về, ngổn ngang, tan nát; nhiều đoạn gỗ cháy dở bốc khói nghi ngút. Hai chiến sĩ thợ và ba lái xe hy sinh tại chỗ.
Vừa làm cuộc chuyển chỗ ở, chúng tôi vừa phải chạy hàng kế hoạch. Mọi người đều vất vả và như quên bẵng đi mối tình của Tuấn và Tình. Cánh rừng mới đến rậm rạp và âm u hơn cánh rừng vừa bị bom đánh. Chúng tôi vừa đào hầm, lợp nhà, vừa sửa chữa xe cộ, lấy xăng dầu lên đường. Khoảng hai tháng ăn dưới đất, ngủ trên thùng xe, toàn tiểu đoàn lại có nhà kho, nhà bếp, hội trường. Một cái xóm nhỏ đã được hình thành giữa bạt ngàn rừng núi. Những bếp lửa hồng làm ấm áp đêm ở rừng. Tiếng gà gáy báo sáng, dây phơi dưới đám lá sặc sỡ những cánh áo hoa con gái, gợi lên những tình cảm gần gũi, ấm cúng. Thời gian đã làm cho chúng tôi bén hơi với chỗ ở mới. Tình yêu của Tuấn và bà chúa rừng tưởng như bị lãng quên, ai ngờ vẫn tiếp tục cái mạch ngầm của nó. Hôm ấy, quãng chín giờ tối, đại đội trưởng của chúng tôi rúc còi báo động. Mọi người đang nằm nghỉ trong nhà hầm nhỏm cả dậy. Có anh kêu lên:
– Quái lạ. Việc gì mà báo động nhỉ? Lâu lắm hôm nay mới thấy báo động.
Người chiến sĩ lái nói chưa dứt câu đã nghe bước chân chạy riết róng của đồng chí đại đội trưởng. Anh loe đèn pin vào nhà hầm giục:
– Chóng lên các cậu. Chóng lên đi… !
Nhiều người cùng một lúc chen vai nhau đi ra ngách nhà hầm. Có tiếng thì thào:
– Hay lại có lệnh di chuyển gấp, địch sắp đánh B.52 chăng?
– Có khi cậu nào lại xuống kho đánh cắp lương khô tiểu đoàn bắt được cũng nên. Tiểu đội ta có thiếu ai không nhỉ?
– Không! Đủ cả.
Chúng tôi vừa chạy, vừa thở, vừa rì rầm bán tán. Bãi tiểu đoàn dùng để tập trung quân lúc đó khá đông người. Họ cũng vừa chạy ra vị trí báo động. Những cán bộ chỉ huy, trong bóng tối của rừng, đứng im phắc. Hẳn có một sự việc gì đó trang nghiêm và quan trọng?
Đại đội trưởng đại đội 6, sĩ quan trực ban, hô khẩu lệnh rất to:
– Đại đội hàng ngang, tiểu đoàn hàng dọc, thành chín hàng dọc, tập hợp!
Tôi chợt nhận ra là đã khá lâu, từ ngày còn là một tân binh mới toe, đến nay mới có dịp được nghe lại một câu khẩu lệnh dõng dạc trang nghiêm và đầy đủ bài bản như vậy.
Sĩ quan trực ban chỉnh hàng quân xong, tuyên bố lý do kiểm tra quân số đột xuất. Chẳng là về chỗ ở mới này chiến sỹ chúng tôi hay bỏ đơn vị, đi tắt rừng vào một bản Lào cách đó ba cây số để chơi bời, đổi chác. Tiểu đoàn trưởng đã lệnh cấm nhưng vẫn có người mắc màn xong buông xuống như có người đang ngủ rồi bỏ đi. Oanh bấm chiếc đèn pin chỉ để hở một vệt sáng nhỏ. Anh hơi tái mặt và trông thật nghiêm khắc, lạnh lẽo. Anh đi hết hàng quân, soi vào từng khuôn mặt, chăm chú xem xét. Vào đúng cái thời điểm ấy một người như chạy từ xa về, luồn dưới hàng quân, ẩy vai tôi đứng vào giữa. Đêm sáng mờ mờ, ống quần ướt của anh ta sát vào nhau kêu ràn rạt. Cho đến lúc tiểu đoàn trưởng soi đèn đến chỗ tôi, mới biết anh chàng ấy là Tuấn!
Khoảng mười phút sau tiểu đoàn trưởng Oanh trở lại vị trí của mình. Anh soi đèn vào sổ tay hỏi:
– Đại đội ba: đồng chí Trung thợ đi đâu?
Tiếng báo cáo to gấp ba lần tiếng hỏi:
– Báo cáo, đồng chí Trung thợ đang đi cấp cứu xe bị đánh hỏng tại cây số mười.
Oanh lại dí đèn pin vào sổ tay:
– Đại đội bốn: đồng chí Thảo đi đâu vắng?
Tiếng báo cáo lại vẫn to và dõng dạc hơn tiếng hỏi:
– Báo cáo, đồng chí Thảo đi bệnh xá.
Chiếc đèn pin trong tay Oanh lại soi tìm trong sổ.
– Tiểu đội phục vụ, đồng chí Tình đâu?
Có tiếng ấp úng:
– Báo cáo… đồng chí Tình bị ốm ạ.
– Có thật vậy không?
Tiểu đội phục vụ im lặng, không ai dám lên tiếng.
Giọng tiểu đoàn trưởng vẫn nghiêm ngặt, thản nhiên:
– Tiểu đội phục vụ cử người về mời đồng chí Tình ra đây.
Có tiếng xì xào nhỏ. Người tiểu đoàn trưởng tinh tế ấy ngẩng đầu lên như muốn nghe xem tiếng xì xào nói gì. Anh vừa ngước mặt, đoàn quân lại im phăng phắc không một tiếng động. Lúc này, một quân nhân nữ đã chạy về nhà trở ra nói to:
– Báo cáo tiểu đoàn, đồng chí Tình ốm thật ạ!
*
Tiếp theo đó là những ngày thử thách ác liệt nhất của chúng tôi. Hầu như không một ngày đêm nào ra đi mà không bị F.4 hoặc AC 130 đuổi bắn hay ném bom. Đối với chúng tôi, như vậy là một thời êm đềm được ăn, được ngủ, được vui chơi đã qua đi. Mỗi một ngày, cung đường lại thêm vài trọng điểm. Đã có hôm gần sáng, máy bay còn đuổi theo một chiếc xe của đơn vị từ ngoài đường tuyến vào tận cửa bãi giấu. Loạt 40 li nổ cắc đùng ngay sau dãy nhà ở, làm ai cũng lo ngại. Những con người trong tiểu đội, trụng đội, đại đội và tiểu đoàn cũng đã có phần bị xáo trộn. Chỉ trong vòng một mùa khô, lính cũ phải thay đổi một nửa. Trong số người phải thay ấy có đồng chí hy sinh, có đồng chí bị thương buộc phải rời đội ngũ. Anh chàng Tuấn ngang tàng có diễm phúc được bà chúa rừng yêu thương đã trở thành một tay lái cừ khôi của đơn vị.
Nếu như trước đó nửa năm, Tuấn cao, mảnh dẻ và trắng như con gái, thì bây giờ cậu ta như lớn thêm ra: Vóc người trở nên to lớn và hai má mờ mờ hình thành vệt đen của râu quai nón.
Ở Tuấn, tính tự chủ đã khá hơn, nhưng tính liều lĩnh cũng phát triển không kém. Có một hôm, tôi đang đi ngẩn ngơ giữa bãi xe, Tuấn chạy ra kéo tôi lại nói vội vã:
– Tớ có một việc cần bán với Tình. Cậu đứng đây trông chừng cho một tý nhé. Nếu đại đội hoặc tiểu đoàn có đi qua, cậu báo cho một tiếng.
Bất giác tôi quay lại nhìn vào đầu xe của Tuấn. Vừa lúc ấy, tôi thấy Tình ló đầu qua cửa xe nhìn về phía sau. Ánh đèn mờ trong buồng lái soi rõ vẻ mặt cô bơ phờ, tóc rối và hai mắt đỏ lên như khóc. Tuy gặp cái nhìn của tôi, cô vẫn không có ý dấu diếm điều gì. Có gì đang diễn ra với họ? Tôi ngạc nhiên nhìn Tình.
Tôi bồn chồn đi lại. Chúng tôi, ai cũng quan tâm đến Tình. Nếu có điều gì thật xấu xảy ra với Tình thì chính trái tim tôi cũng bị tổn thương. Họ đang thì thào điều gì? Bước chân tôi không ai xui khiến vẫn cứ đi đi lại lại nhích gần về phía đầu xe. Ánh sáng mờ nhạt do điện ắc quy cung cấp trong gầm ca-bin, vụt tắt. Những tiếng thì thào vẫn không hề bị đứt quãng.
Chàng trai:
– Em đừng lo. Với lại có điều gì là đáng sợ?
Cô gái.
– Không anh ạ. Anh nghĩ như thế là chưa đúng.
Tim tôi đập rộn lên trong lồng ngực. Rất có thể một chuyện đau buồn đáng lo ngại đã xảy ra với Tình. Cố gắng lắm tôi mới bước dịch ra khỏi đầu xe được vài bước ngắn. Lại tiếng chàng trai quả quyết:
– Dù có thế chứ quá thế đi nữa, anh vẫn chịu đựng được.
– Anh chủ quán lắm. Em sợ!
Tiếng người con trai nối dài và điềm tĩnh hơn:
– Dù ông ta có đưa anh tới đỉnh cao điểm suốt ngày có B.52 chần, anh cũng không từ chối. Như đê Năm hai đấy. Cả năm có một người hy sinh, em biết người đó là ai không? Một tên hèn nhát, là lái xe nhưng cáo đau dạ dày, quanh năm tháng rúc hầm. Nói chuyện với hắn, hắn nói thật, đi tắm cũng sợ, đi ăn cơm, thậm chí đi đái cũng sợ. Vì hắn nghĩ nhỡ đang đái, B.52 chụp xuống đầu là xong! Vừa rồi hắn chết vì rắn độc cắn đi cấp cứu không kịp đấy. Hắn ngủ dưới hầm một con rắn chui vào đớp đúng bàn chân.
– Thế vị trí tiểu đoàn sắp bảo anh đến là chỗ nào?
– Đèo Sê Su.
– Ở đó có ác liệt không?
– Cùng tàm tạm. Em lo à?
– Vâng.
Sau đó là im lặng. Im lặng một quãng thời gian dài. Tôi không nghe họ nói thêm gì nữa. Và cũng chỉ nghe dăm ba câu trao đổi, tôi đã hiểu đầu cuốicâu chuyện. Cách đấy một tuần, tiểu đoàn có chỉ thị cho đại đội tôi chọn một tổ lái đến đoạn đường dốc đứng của đèo Sê Su làm nhiệm vụ kích kéo. Tổ này ra đi hết mùa khô mới trở lại đơn vị. Bây giờ nghe Tuấn trao đổi với Tình, tôi mới biết cậu ta được chọn vào tốp người cảm tử đó.
Tôi không hề biết có ánh đèn pin đang quét dọc bãi xe, nhà để vật liệu. Mắt tôi nhìn thấy, nhưng tôi đã quên khuấy công việc Tuấn nhờ. Khi tôi sực nhớ ra thì người đó đã đến gần. Anh ta hỏi to:
– Ai đó?
– Tôi. Tôi đây ạ!
– Đứng đây làm gì lúc này?
Tôi lúng túng chưa kịp trả lời. Rõ ràng tiểu đoàn trưởng Oanh, con người rất tinh tế ấy đã nhận ra những cử chỉ giandổi của tôi. Anh bước lại phía tôi thật nhanh. Có thể anh cho rằng tôi ra bãi xe lây ít viên đạn đi đổi gà trong bản.
– Cậu cầm cái gì đấy?
Oanh soi đèn vào tay tôi. Đúng lúc ấy chiếc ô tô của Tuấn nổ máy. Tiếng máy vừa nổ, xe đã lao rào rào qua các bụi cây, chạy rất nhanh ra con đường trong cánh rừng kín. Lúc này tiểu đội trưởng Oanh mới phát hiện ra chiếc xe đang chạy. Anh gọi với theo.
– Xe đi đâu đấy, đứng lại!
Do bước quá đà, anh lọt thỏm vào giữa một bụi cây, nom thật buồn cười. Cái động tác vừa rồi không giống vẻ đi đứng chững chạc của Oanh mà mọi người vẫn thấy.
*
Bước sang đầu tháng tư. Mặt trận miền Nam Lào khô bỏng trong nắng. Chỉ hơn một tháng mưa, những trận mưa rào lớn sẽ dội xuống những cánh rừng đầy bụi này. Mặt trời vừa lóe lên buổi sớm, độ nóng của những tia nắng đã đậm đặc, gay gắt. Tiếng ve rừng dường như cũng góp phần làm cho không gian căng thẳng. Tôi có thể nằm nghe thấy tiếng rụng cuống của một chiếc lá, tiếng cành khô nứt vỡ bật ra tanh tách. Tiếng động cơ âm u của máy bay thường trực bên tai, gây một cảm giác nhức nhối, khó chịu.
Tình vừa đi điều trị dưới đại đội ba về. Cô uể oải đi từng bước qua con suối lớn đã bị nắng bốc đi đến giọt nước cuối cùng. Hàng nghìn hàng trăm tảng đá cục, tròn, méo, to nhỏ bị sóng dồn lại một chỗ như đám đồ chơi của trẻ con bỏ quên giữa thiên nhiên.
Tình ngồi xuống bên bờ suối. Một cành cây cổ thụ như chiếc quạt lông lớn xòe ra che rợp mặt người. Dạo này Tình đang buồn, Tuấn sắp sửa ra đi, cô chỉ có thễ gặp được anh trong những chuyến đi phục vụ lái xe dọc đường. Trường hợp đó, có gặp được cũng chỉ vài phút… Sáng nay, trong lúc giao ban, tiểu đoàn trưởng gay gắt phê phán quân y điều trị sơ suất, để cho Khôi, đại đội trưởng đại đội 5 có nguy cơ phải tháo khớp tay.
Mình có lỗi gì không? Tình băn khoăn áy náy. Khi bom đánh xuông cây số 3, xe cháy, đại đội trưởng Khôi bị mảnh bom cắt cụt hai đầu ngón tay. Cậu Nam y tá đại đội có mặt lúc ấy đã kịp thời băng bó, tiêm trợ sức cho thương binh. Về đến nhà, Tình rất muốn gửi Khôi lên bệnh xá cấp trên. Nhưng bản thân Khôi lại xin ở lại. Đồng chí đại đội trưởng này có một vị trí đặc biệt trong đơn vị. Anh có biệt tài tháo gỡ vật liệu, lắp ghép, sửa chữa và thay thế xe tài tình. Vắng anh một ngày, sẽ không đảm bảo số đầu xe cho việc vận chuyển hàng ngày. Tuy rất đau, Khôi vẫn xin Tình cho phép được tiêm thuốc, thay băng ở nhà. Hai ngày nay, chỗ vết thương của Khôi có chiều hướng viêm tấy, nóng bỏng. Buổi sáng anh lên cơn sốt kịch liệt. Tình đã vội vã tổ chức đưa Khôi lên quân y trung đoàn. Chủ nhiệm quân y tuyến trên có điện xuống trách chỉ huy tiểu đoàn không quan tâm đến thương binh. Lúc đó tiểu đoàn trưởng Oanh lại là người trực tiếp nghe điện. Vừa nghe điện xong, mặt Oanh tái đi vì giận. Anh không nổi nóng, quát tháo như những người khác. Nhưng trong buổi giao ban, lần đầu tiên Tình thấy Oanh nói những lời chỉ trích quá cay độc.
Tình buồn quá!
Bao nhiêu năm nay, Tình đã làm việc không phải chỉ với trách nhiệm thuần túy. Cô đã làm việc bằng tình yêu thương con người thực sự. Kể cả những đêm trên trọng điểm, lửa vẫn cháy, bom đạn vẫn nổ, Tình có nề hà gì đâu. Nhiều khi tự cô đã phải lôi họ đứng dậy, kéo họ ra, dìu họ đi, từ những xác xeđang bốc cháy, đập lửa phủi bụi đất đang bám trên đầu tóc quần áo họ. Thân con gái mềm yếu như cô đã có lúc một mình cõng thương binh đi cả cây số. Năm tháng qua, Tình thật sự đã sống hết mình vì anh em. Thế mà sáng nay, sự đay nghiến của Oanh khiến Tình bối rối. Cô đang ở trong một trạng thái hoàn toàn bất ổn định, cô ân hận vì không dứt khoát bắt buộc đại đội trưởng Khôi phải đi viện. Cô thừa nhận chính cô đã góp phần làm tình trạng vết thương của đại đội trưởng đại đội Năm nặng thêm.
Vào đúng lúc đó, tôi cùng Tuấn và cậu Thọ thợ máy lốc nhốc kéo nhau lên nhà chỉ huy tiểu đoàn. Đi ngang qua, thấy Tình ngồi một mình, chúng tôi đứng cả lại.
– Đi đâu mà còn ngồi đây?
– Em đi điều trị về.
– Có việc gì mà suy nghĩ ghê thế?
– Đâu có gì anh?
– Tuấn đi rồi Tuấn lại về. Đừng lo thằng Tuấn nó chê cô Tình.
– A… Nhà thơ con cóc.
Chúng tôi cười nhạt nhẽo, lẳng lặng bỏ đi. Hai người đứng bên nhau một lát rồi thấy Tuấn chạy theo. Tuấn có nói với tôi, do ghét cậu mà Oanh đã đẩy Tuấn, tôi và Thọ đi chốt kích kéo ở đèo Sê Su. Tuấn còn tiết lộ thêm bên ngoài thì hết sức bình thản, nhưng bên trong, Oanh đang ráo riết trả thù hai người. Tôi hoàn toàn chưa tin. Việc một tổ xe chốt ở Sê Su đã có trong phương án vận chuyển từ lâu. Nếu tổ lái và thợ của chúng tôi không đi việc đó sẽ thuộc về người khác. Tiểu đoàn đã chọn tôi và Tuấn cũng có cái lý của nó. Tôi thì thận trọng. Còn Tuấn vừa có sức vóc, lại vừa gan góc có tiếng. Còn cậu Thọ là một thợ máy loại giỏi. Theo tôi, lời Tuấn nói ra miệng, đầy định kiến.
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lên gặp chỉ huy tiểu đoàn để nhận nhiệm vụ, tối lên đường. Nhà chỉ huy tiểu đoàn có một nét khá lạ. Mọi ban chỉ huy thường dựng nhà ba gian. Một tiểu đoàn trưởng ở, một gian dành cho chính trị viên, một gian giành để hội họp, giao ban. Đã ba năm chỉ huy tiểu đoàn, chưa bao giờ Oanh cho dựng nhà chỉ huy theo thể thức ấy. Lần nào Oanh cũng đích thân hướng dẫn làm nhà cho anh riêng biệt hẳn ra một chỗ.
Căn nhà của Oanh thật nhỏ và xinh. Nó nhỏ như một cái bếp. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy toàn bộ căn nhàđược dựng bằng nứa. Cột nhà là những gốc nứa to được bào nhẵn, tinh nứa màu trắng ngà. Cửa sổ, vách cho đến mái lợp cũng bằng thứ nứa già dùng lâu vẫn còn giữ được vẻ sáng sủa. Tính Oanh ưa kỹ lưỡng. Chính mắt tôi đã được thấy, tuy chỉ là mảnh nứa ken vách, một chiến sĩ chẻ nứa không đều,Oanh đã bắt phải vứt đi, đo theo khuôn thước, làm lại. Có lẽ công phu như vậy, nên nhìn toàn bộ căn nhà nhẹ nhõm, thanh lịch và mát mẻ. Chúng tôi leo lên một cái dốc ngắn. Oanh đang đứng ở đầu hồi nhà im lìm nhìn vào cánh rừng. Gió nóng thổi bạt những chiếc lá khô chạy trên mặt đất, bật thành những tiếng kêu khô khốc. Nhìn lại thấy chúng tôi, mặt Oanh hơi sáng lên một tý. Không phải là anh cười. Vẻ mặt ấy trong một giây lại trở lại trạng thái cũ, lẳng lặng, cái nhìn chăm chú và tinh tường.
– Mời các đồng chí vào.
Chúng tôi ngồi xuống ghế. Anh pha nước, rót ra bốn chén và đặt trước mặt từng người mà không hề bật ra một tiếng động dù rất nhỏ. Oanh giở sổ tay, động tác cũng khẽ khàng. Và anh nói, mặt vẫn lặng tờ như hồ nước không động sóng.
– Hôm nay tiểu đoàn rất vui mừng được mời các đồng chí lên giao nhiệm vụ quan trọng. Như các đồng chí từng qua đèo Sê Su thì biết. Đèo nguy hiểm là thế, cây số 18 có một cái dốc ngắn dựng đứng. Xe ba cầu thì không cao, nhưng xe một cầu chỉ cần láng một tý nước đã quay trơn. Không thể nào đi được. Mặt đèo trống, khi bị tắc đường, mười phút đã có thể bị nguy hiểm. Cấp trên chủ trương đặt ở đó một tổ chốt. Vinh dự lớn lao và trách nhiệm nặng nề này, tiểu đoàn xin trao lại cho ba đồng chí. Hiện nay, tại đó, công binh đã dựng được hầm kiên cố cho xe và người rồi.
Ngồi trước mặt Oanh, nhưng dường như Tuấn không nghe tiếng tiểu đoàn trưởng. vẻ mặt của Tuấn lầm lỳ, khôngai biết cu cậu nghĩ gì. Tiểu đoàn trưởng giao nhiệm vụ xong, anh mời chúng tôi phát biểu, xem có đề nghị gì không. Hai chúng tôi ngồi im. Chỉ có Thọ vô tư, nói bô bô:
– Thế chúng tôi ăn uống ra sao, lấy nước ở đâu?
– Phải lĩnh lương thực, thực phẩm đi chứ. Với lại hàng ngày đơn vị đều có xe qua lại. Chúng tôi sẽ gửi đồ ăn thức uống tới. Còn suối nước ngay dưới chân cao điểm.
– Được thôi!
Thọ nói buông ra, cứ như nhận đi cũng được mà từ chối cũng được. Có lẽ sự vô tư dễ dãi đó khiến ai cũng quý mến anh thợ thấp béo này.
*
Có đến nơi mới thấy hết được sự phức tạp của nó. Vừa lên đến đèo, đang ném giường chiếu, ba lô chăn màn xuống, chúng tôi đã bị máy bay quật cho một trận. Tôi vừa nghe một tiếng rú ngắn, bom đã nổ phía đầu dốc. Cả ba người đều lao cắm xuống đất, nằm ép sát vào rãnh đường. Mảnh bom bay vù vù như mũi tên. Rất nhiều đất đá, ném vào người, vào xe bồm bộp. Bụi phủ mù mịt.
Tôi vào hầm không một bóng người. Có một mảnh giấy nhỏ ghi vắn tắt: “Hầm tốt cực kỳ. Thằng nào ở đây cũng sướng”. Tuấn giật tờ giấy vò nát trong tay. Tôi và Tuấn xếp đồ đạc, còn Thọ đi lấy nước. Thằng cha này siêng năng đây. Tôi nghĩ, ở tập thể với người siêng năng thật dễ chịu. Việc gì khó họ cũng có thể làm hộ cho mình. Chúng tôi vừa kê xong giường, đầu đèo đã có tiếng súng bắn xin xe kéo.
Chẳng nói chẳng rằng, Tuấn ra hầm xe nổ máy. Những ngày ở đây, tôi mới được chứng kiến tình yêu của đôi trai gái này thật mãnh liệt. Dường như không có ngày nào Tình không có tin cho Tuấn. Lúc thì cô gửi tới một phong lương khô, có dắt kèm một đoạn thư : “Hôm nay, em nóng ruột quá. Đi điều trị ở đại đội ba về, nhưng không ngủ trưa được. Không biết ở đèo các anh có việc gì không?”. Có hôm cô lại gửi lên một bọc lá chua cho tổ kích kéo nấu canh. Cũng lại kèm theo một đoạn thư nhỏ: “Ở đèo anh có khỏe không đấy? Cần gì viết thư báo cho em biết ngay. Chiếc áo em giặt cho anh phơi chưa khô. Em đã định gửi nhưng sợ áo hôi, không gói nữa… Mai anh nhé”.
Từ ngày lên Sê Su, Tuấn hoàn toàn thay đổi tính tình. Suốt ngày cậu câm lặng và làm việc nhẫn nại như một con trâu. Chỉ đôi lúc, người ta bắt gặp cậu hát cho mình nghe những câu hát vu vơ và buồn.
Hôm ấy chúng tôi ra đường sớm. Được cấp trên điện cho biết trước, đêm nay sẽ có năm trăm xe vượt đèo. Tổ kích kéo sẵn sàng, bởi trong số xe máy này có cả một tiểu đoàn Gát 53. Loại xe như chúng tôi nói: gặp vũng nước trâu đái cũng giẫy lên đành đạch.
Chúng tôi đi bộ ra vị trí làm việc. Trăng đã lên. Những hàng cây xác xơ vì bom đạn phía xa xa, gợi lên cảnh tan nát của chiến tranh. Ánh trăng mát dịu và se lạnh. Cái lạnh có thể chịu được nhưng vẫn làm cho Thọ bật ra tiếng suýt xoa. Đến đầu dốc thì Tuấn cũng vừa đưa chiếc Jin 157 đầu tời lùi vào vị trí cố định. Cậu ta tắt máy, nhảy khỏi xe, loay hoay mặc áo giáp. Tuấn đội chiếc mũ sắt, mặt câu tròn lại và như trẻ hơn. Có tiếng động cơ giòn và nhẹ, đúng loại Gát đang chạy lên đèo. Một lát sau, đầu chiếc xe Gát ló ra. Nó chạy đến đoạn dốc cao, phanh lại. Người lái nhỏ bé nhảy xuống kêu to:
– Các anh kéo tôi với.
Tuấn lên xe. Tôi cầm đầu móc tời, sẵn sàng. Tuấn nổ máy, cài số tời, nhả côn. Máy tời quay ro ro. Tôi kéo sợi cáp tời xuống dốc, móc vào đầu chiếc xe Gát.
– Ở đơn vị nào đấy?
– Dê sáu.
– Cái tên nghe lạ hoắc.
– Đúng thế. Lính bắc vào mà lại.
– Có gì không?
– Cái gì?
– Thuốc lá, thuốc lào.
– Cho các ông bao thuốc đây.
– Ông bạn tốt thật đấy.
Cỗ tời từ từ kéo chiếc xe Gát lên như có một bàn tay thần diệu nào trợ sức. Xe đầu chưa kịp lên, chiếc thứ hai của đoàn đã có mặt. Tuấn lại cài số, nhả tời. Tôi lại lặng lẽ kéo đầu cáp móc vào chiếc Gát dưới dốc. Thỉnh thoảng tôi chui vào mấy căn hầm nhỏ cạnh đó, châm thuốc lá đến cắm vào miệng Tuấn. Cứ thế, hàng đêm dài chúng tôi đã kéo không biết bao nhiêu xe qua đèo. Bom đánh, tất cả chạy vào hầm. Khói bom tan, mọi người lại ra, xe hỏng thì sửa chữa, thay thế. Xe tốt lại tiếp tục cài số tời, nhả dây.
Một hôm vào khoảng nửa đêm, đoàn xe của đơn vị tôi qua đèo. Đêm ấy, Tình xin được đi công tác trên đường. Cô ngồi ở xe thứ hai trong đội hình hành quân. Dọc đường sắp tới Sê Su, Tình thuyết phục mãi, đồng chí lái xe mới chịu chạy thật nhanh, tạo một khoảng cách khá lớn với đoàn xe, để cô tranh thủ vào thăm Tuấn. Xe vừa dừng bánh, Tình đã bật cửa cabin lao ra, cô vừa chạy vừa kêu to:
– Anh Tuấn ơi! Anh Thọ, anh Tuấn ơi!…
Cô ôm một bọc to, chạy xộc vào hầm. Đêm ấy, tham mưu trưởng cung đường cho biết: không có xe một cầu ra vào nên chúng tôi không cần trực ở đầu dốc đứng. Tình vào đến giữa hầm thì đứng sững lại. Cô nhìn vào bữa cơm chúng tôi đang ăn. Bữa cơm được dọn trên sạp nứa. Một nồi cơm đang bốc hơi nghi ngút, thức ăn là một bọc đường bằng giấy ni lông to tướng. Chúng tôi thay nhau khuếch đường rải lên trên bát cơm và ăn. Tình lặng nhìn ba người. Tuấn, tôi và Thọ phút chốc bê bát ngồi im đến ngây ngô. Tình buột miệng kêu lên:
– Sao các anh lại ăn thế này?
Thọ phá tan sự im lặng bằng nụ cười rất thản nhiên:
– Không ăn thế này, thì ăn làm sao?
– Em chưa thấy ai ăn cơm tẻ với đường.
– Rau rừng thì không có, nước lại hiếm. Ruốc thì hết. Không ăn cơm với đường thì ăn với gì nào?
Nghe tiếng còi pi pi, Thọ chạy vội ra cửa. Tình ngồi ghé vào chỗ Tuấn. Anh chàng có vẻ xúc động, nét mặt hơi dại đi. Tình đưa cho tôi cái gói. Tôi giở ra xem, đã thấy có một nửa là thịt nai tươi. Tôi quay lại, định reo lên thích thú, chợt im bặt bởi trông thấy Tình và Tuấn đã ngồi rất gần bên nhau. Tôi bước vội ra ngoài, cần giành cho họ một phút yên tĩnh. Tôi biết, cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đối với họ quý giá biết nhường nào. Người ta kể rằng, trong những cánh rừng đôi chim từ quy, con đầu rừng, con cuối rừng, suốt đêm gọi nhau, tiếng kêu thánh thót và da diết. Lúc gần sáng chúng nó sẽ tìm ra nhau và lúc ấy, sẽ im bặt tiếng kêu chứa đầy sự cô đơn kia. Tuấn và Tình chắc cũng như đôi chim từ quy không còn phải thốt lên cái âm thanh kiếm tìm vang vọng rất xa ấy.
Ngoài đường, đã có một vài xe dồn lên đèo. Bóng các chiến sĩ lái xe lố nhố mặt đường. Trong cái đám lộn xộn ấy, tôi không thấy mặt tiểu đoàn trưởng Oanh. Nhưng khi anh vào gần đến cửa hầm quay lại nhìn, tôi mới giật thót người. Vội vã chạy theo, tôi định gọi, nhưng đã muộn. Oanh đã bước xuống bậc hầm và lấp hẳn sau giàn cây to bằng bắp chân được dựng lên chắn mảnh bom đạn.
– Chết bỏ mẹ!
Tôi buột miệng kêu. Tôi không biết được là mình đã chạy vào đến cửa hầm. Nhưng Oanh đã quay ra. Một tý nữa tôi lao vào anh. Gương mặt Oanh lạnh ngắt và tái xám. Anh đi lùi thêm ra mấy bước hắng giọng và nói nhỏ với tôi.
– Các anh có mấy người mà ăn ở lộn xộn quá đấy. Ở đâu cũng cần phải sạch sẽ, gọn gàng, trật tự và ngăn nắp.
Oanh chưa nói hết câu thì có tiếng động phía sau. Hai chúng tôi đều quay lại. Tôi sợ hãi nhận ra vẻ mặt hầm hầm của Tuấn.
– Như thế là không tốt.
Tuấn quát lên trống không, nhưng lại nhìn thẳng vào Oanh. Tôi hiểu điều gì vừa xảy ra với hai người. Gương mặt tiểu đoàn trưởng của chúng tôi có tái thêm đi một chút nhưng vẫn lạnh lẽo như thường lệ. Anh ta chăm chú nhìn vào con người đang phản ứng quyết liệt. Tôi nhận ra, với vẻ mặt ấy, Oanh không có ý muốn nói và làm bất cứ việc gì. Kể ra, có một người xử sự như vậy cũng thật hiếm hoi và đáng sợ. Tôi ước đoán Oanh như đang ghi nhận tất cả, để rồi sẽ nhớ mãi suốt đời tất cả. Tôi xô tới, gắt vào mặt Tuấn.
– Thôi im đi!
Từ dưới hầm, Tình chạy lên. Cô khóc:
– Thôi anh, em xin. Anh…!
Oanh đã bỏ đi, không nói một lời.
Tuấn đã quá liều lĩnh. Cậu ta xúc phạm Oanh, ít nhất, cũng là một tiểu đoàn trưởng. Làm sao đôi trai gái có thể tránh khỏi hậu quả? Tôi cũng không tán thành cung cách ăn nói của Tuấn. Thiếu gì lời lẽ nhẹ nhàng, văn hóa hơn vẫn chỉ để truyền đạt cái nội dung đó. Tôi theo dõi từng ngày qua đi, nhưng không thấy Oanh phản ứng trực diện điều gì. Từng đêm, chúng tôi vẫn kéo xe qua trọng điểm.
*
Ở hậu cứ, đại đội trưởng Khôi được đưa lên trạm xá trung đoàn, rồi lại lên viện sư đoàn, ở đó không còn cách nào khác, bác sĩ đã phải tháo khớp tay của anh. Sau hai tháng trời đằng đẵng, đơn vị tôi nhận được một bức thư dài của anh lời lẽ thống thiết, được viết từ một làng Quảng Bình. Khôi tỏ ra tiếc rẻ phải rời đội ngũ. Cuối thư, để vĩnh biệt chiến trường, vĩnh biệt bạn bè, trở lại với làng xóm, quê hương, anh đã gửi lời chào không thiếu một ai ở tiểu đoàn. Kèm trong thư là tấm ảnh anh vừa chụp, vẻ mặt xanh xao, tay bị thương chưa mở băng.
Lá thư được Oanh trang trọng đọc to trong buổi giao ban tiểu đoàn. Tình cúi mặt, cô không khóc nhưng nước mắt cứ chảy dài trên má. Thế là Khôi đã ra đi, vĩnh viễn không trở lại. Sẽ không còn ai che chở thanh minh cho Tình. Nhưng cuộc giao ban chỉ dừng lại tại đó. Mỗi người không bàn thêm gì về Khôi. Họ coi như anh ra đi là một sự việc đã rồi. Tình cố ý chờ xem đến phút cuối Oanh có phê phán gì thêm cô nữa không. Nhưng anh ta cũng đã gấp sổ sách đứng dậy.
Buổi tối hôm đó, tiểu đoàn phó cho gọi Tình lên. Tình vội vàng đi ngay. Đồng chí cán bộ già nhìn cô một lát. Khuôn mặt ông thật hiền.
– Tình ạ. Tiểu đoàn yêu cầu cô làm bản tường thuật lần thứ ba đấy.
– Có khi cháu không làm nữa đâu chú ạ. Sự việc có thếthôi, cháu đã kể hết rồi.
– Chỉ nói dại thôi.
– Cháu nói thật đấy.
– Nhưng tiểu đoàn yêu cầu!
– Tiểu đoàn là ai mới được chứ ạ?
– Là… là ai? Là tất cả chứ là ai?
Đồng chí tiểu đoàn phó ngập ngừng rồi nói lảng ra. Tình ấm ức trở về. Mắt cô đỏ lên như muốn khóc. Cô cương quyết không làm bản kiểm điểm. Cô mắc màn, tung chăn đi nằm sớm. Càng nghĩ càng buồn bực, cuối cùng rất khuya, cô bật dậy. Chọn một tờ giấy trắng, cô viết dòng chữ như người ta siết mũi dao vào tờ giấy: “Tôi không có tội gì cả”.
Rồi cô thổi phụt đèn đi ngủ.
Sáng sớm, đánh răng rửa mặt xong, Tình đi thẳng lên nhà Oanh. Cô đặt tờ giấy lên bàn của đồng chí tiểu đoàn trưởng, rồi đi như chạy về nhà. Một tuần sau, Hội đồng quân nhân tiểu đoàn họp và công bố đề nghị cấp trên đình chỉ công tác của Tình, buộc cô phải xuống làm việc ở tiểu đội nuôi quân.
Tình xin được nghỉ vài ngày trước khi thu xếp về làm ở tiểu đội nuôi quân. Cô dự định trong năm ngày này sẽ tắm giặt, nghỉ ngơi rồi có xe sẽ bám theo lên Sê Su thăm Tuấn. Ngày đầu tiên được nghỉ qua đi chóng vánh. Cho đến ngày thứ hai, thứ ba… nỗi chán ngán, nỗi bực dọc và cái nắng ngột ngạt hành hạ, cô không làm sao dậy được. Cô hoàn toàn không biết rằng giữa những ngày cô nghỉ, tiểu đoàn trưởng Oanh đã có quyết định chuyển đi đơn vị khác làm trung đoàn phó. Buổi chiểu hôm ấy, một cô bạn gái vào nhà gọi Tình.
– Chị Tình ơi, sao bây giờ vẫn chưa dậy à? Người ta đã đi ăn cơm hết rồi kìa!
– Sao hôm nay lại đi ăn sớm thế?
– Thế hôm nay liên hoan, chị có biết không?
– Việc gì mà liên hoan nhỉ?
– Ông Oanh đi, ông ấy đi trung đoàn khác.
– Thật sao?
– Đúng đấy. Chị ngạc nhiên lắm à?
– Không… Không.
Oanh đi thật sao? Tình ngồi bật dậy và tỉnh táo trở lại. Bao nhiêu ngày tháng cô đã sống bó buộc, nặng nề như bị kìm hãm, không chế. Mặc dù cả tiểu đoàn hàng trăm con người không ai thừa nhận Oanh có một hành động trả thù cô. Tình vội vã chải lại đầu, sửa sang quần áo rồi đi theo cô bạn.
Cửa rừng, nơi tiểu đoàn dùng làm sân, đã được quét sạch bóng. Đông người quá. Có bao nhiêu bàn ghế đã được bê tất ra sân bãi. Thì ra cả một ngày, Tình nằm ỉu xìu trong nhà tách biệt hẳn với cái thế giới sôi động tấp nập ở bên ngoài.
Phía nhà bếp thật bận rộn. Người ta đang ngả trâu để làm thịt. Những món nướng, món xào hầu như đã xong cả.
Nhiều chậu thịt chín được bê đặt lên bàn bốc hơi nghi ngút. Từng tốp người ngồi xúm xít một chỗ, bàn luận đủ mọi chuyện. Nghe được dăm ba câu, Tình cảm thấy có lẽ cả tiểu đoàn này chỉ một mình cô và Tuấn ghét Oanh. Tại sao thế nhỉ? Chính cô cũng không thể hiểu nổi. Đa số bạn bè, đồng đội của Tình vẫn thừa nhận Oanh là một tiểu đoàn trưởng giỏi nhất trong bốn tiểu đoàn trưởng của trung đoàn này. Một tiểu đoàn trưởng vóc người nhỏ nhắn, trắng trẻo, tinh tế, ít khi nổi nóng, giỏi về kỹ thuật, có tài điều hành chỉ huy vận tải. Những nhận xét, những lời bình phẩm, ca ngợi về Oanh cứ làng màng bên tai Tình. Chính phút đó, cô chợt thấy Oanh đang từ dốc đi lên. Anh ta đi cùng hai cán bộ lạ mặt. Hôm nay, Oanh mặc áo phin trắng. Chiếc áo này làm cho Oanh trẻ thêm ra.
Sau buổi liên hoan vẫn chưa thấy Oanh rời đơn vị. Anh đã có quyết định và đang chờ xem nếu có xe lên bộ chỉ huy mặt trận thì đi cùng một thể. Còn Tình hết hạn nghỉ năm ngày, cô dọn đồ đạc xuống tiểu đội nuôi quân, cách chỗ ở cũ vài trăm mét. Chưa kịp đi làm công việc mới được buổi nào, đơn vị đã có một sự đảo lộn lớn. Mặt trận phía trong thành lập một trung đoàn vận tải. Nhiệm vụ của tiểu đoàn xe này phải dồn góp đủ quân số một đại đội chi viện cho đơn vị mới. Tình vừa nghe tin buổi sớm, buổi chiều tiểu đoàn đã tập trung bộ đội, đọc quyết định những người đi đơn vị mới.
Và dịp ấy Tình đã ra đi. Cô không thể ngờ cái ngày ấy lại là ngày cô sẽ phải nhớ mãi. Cô ra đi, đúng như sự ra đi của một người lính. Một ba lô và một chiếc túi nhỏ đựng khăn mặt, bàn chải răng và cuốn sổ bìa ni lông. Cô và đồng đội còn ra đi trước cả tiểu đoàn trưởng Oanh, người nhận quyết định và liên hoan cách đó gần một tuần. Tất cả những người ra đi đều được xếp lên một chiếc xe lớn. Trong số người đi không có Tuấn. Tình cũng không kịp báo tin để Tuấn trở về chia tay. Thậm chí việc ra đi ấy mãi một tuần sau, ở đèo Tuấn mới biết.
Chiếc xe tải ấy lên đường vào lúc mặt trời sắp lặn. Thôi chào nhé! Tình nhìn khắp lượt nhà cửa cảnh vật, con suối cạn, những cây săng lẻ to cao, nơi cô đã có một thời gian gắn bó. Tình không hề hy vọng gặp Tuấn dọc đường. Anh ở cách xa đơn vị chục cây số, ra khỏi cánh rừng, đã nhìn thấy con đèo anh đang sống ở trước mắt. Con đèo cao lừng lững, màu xanh, đứng ngang trời kia. Xe càng chạy, Tình càng có cảm giác như ngọn đèo xích lại gần. Nhưng cảm giác đánh lừa cô: Chính cô cũng thừa biết, một vòng bánh xe quay là cô đã đi xa anh thêm vài bước. Trời tối xuống rất nhanh. Chỉ một lát sau đó, màu xám của con đèo đã lẩn vào đêm tối mênh mông.
Tình ra đi chừng một tháng, tôi được lệnh trở về đơn vị. Còn Tuấn, do Tư lệnh trưởng cung đường tín nhiệm, đã được cắt hẳn cho tiểu đoàn công binh ở lại đèo Sê Su, làm nhiệm vụ kéo xe. Tôi về tiểu đoàn được chừng một tháng thì tất cả người và phương tiện được đưa ra miền Bắc. Mùa khô đã chấm dứt. Mùa mưa bắt đầu dội nước xuống những cánh rừng rậm rạp của đất Lào. Ác thay, từ một trung đoàn gần sát chiến trường K, mỗi tháng Tình lại gửi ra cho Tuấn một vài bức thư. Sốt ruột quá, tôi đành phải viết cho cô ấy mấy lần, thông báo Tuấn vẫn làm việc ở đèo Sê Su. Có thể do thư từ ở chiến trường dễ bị thất lạc, Tình vẫn không nhận được thư tôi viết cứ tiếp tục viết thư ra tiểu đoàn cho Tuấn. Lá thư cuối cùng, cô như đã bất lực. Là bạn của họ, tôi chỉ còn biết cầu may cho đôi trai gái ấy. Bặt tin họ, tôi tự an ủi mình, chắc họ đã gặp lại nhau trong ấy! Chiến trường tuy thật rộng, nhưng đèo Sê Su, con đèo lớn và ác liệt có tiếng ấy lại chỉ có một người tên là Tuấn, quanh năm ngày tháng ở lại kéo xe.
Kể từ dạo đó, mười mấy năm qua đi, chiều nay tôi mới gặp lại Tình, vẫn cái nhìn, nụ cười dễ mến. Gặp tôi, cô xúc động thật sự. Vì quá đột ngột nên tôi chưa dám hỏi điều tôi đã từng nung nấu bấy lâu nay: Tuấn ở đâu? Và bây giờ Tình đang sống như thế nào?
– Đi lối này anh. Nhà em kia kìa.
Chúng tôi vội rẽ theo Tình. Tôi nhận ra cô gái vẫn còn đang hồi hộp. Và khi về nhà, phần nào tôi cũng đã đoán ra được hoàn cảnh của Tình. Tình mở cửa, mời chúng tôi ngồi xuống ghế. Cô cũng ngồi thừ ra nhìn tôi. Một phút căng thẳng qua đi. Tôi hỏi:
– Thế Tuấn ra sao?
– Thì em cũng muốn hỏi anh điều đó.
Và chỉ nói được đến đó. Tình cúi mặt xuống khóc. Như thế, tức là Tuấn đã không còn nữa. Sau này tôi được rõ thêm, đã có một lần, ngày vừa trở ra Bắc, Tình đã đến quê Tuấn. Chính những ngày đó, bố mẹ và các em Tuấn cũng chưa biết .Tuấn đang ở đâu. Lần thứ hai Tình viết thư cho gia đình Tuấn. Bức thư được trả lại với dòng chữ ghi rõ ràng: “Cả gia đình đã chuyển vào Nam”. Những năm qua, tuy không thể quên được Tuấn và vẫn có ý chờ anh, nhưng rồi Tình hiểu rằng mãi mãi chẳng bao giờ gặp được anh. Tình đã chấp nhận một người con trai khác. Vào cái tuần tôi về nông trường công tác là tuần họ đang chuẩn bị tổ chức đám cưới. Người chồng của Tình là một anh bộ đội phục viên trở về, học xong đại học. Hiện anh là kỹ sư, trưởng phòng kỹ thuật của nông trường này.
Còn Oanh, tôi không biết bây giờ anh ở đâu. Tôi có ý định gặp lại bạn cũ sẽ hỏi xem anh ta bây giờ làm gì. Nhưng buồn thay, mỗi cuộc gặp lại bạn cũ, nói bao nhiêu chuyện mừng vui rồi rốt cục lại quên đi cái ý định đó.
Tôi tự nghĩ, phải chăng mọi người cũng không còn nhớ đến anh ta nữa.
Vân Hồ tháng 3 năm 1984