CÔNG TRÌNH TƯỞNG NIỆM ANH HÙNG LIỆT SỸ TUỔI TRẺ TRƯỜNG SƠN – ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH VIỆT NAM

I. Ý tưởng và sự cần thiết đầu tư
Trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, hơn ở đâu trên trái đất này, nhân dân các dân tộc Việt Nam thể hiện là một dân tộc tình nghĩa sống, theo đạo lý uống nước nhớ nguồn. Miền đất nào trên quê hương này cũng có rất nhiều đền thờ, ghi nhớ tôn vinh các anh hùng dân tộc. Nhiều tên tuổi anh hùng đã trở thành những vị thánh bất tử trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Đó là hành sử của nhân dân, và cũng là căn cốt trong nuôi dưỡng tình cảm yêu nước của những thế hệ đứng đầu quốc gia dân tộc. Đất nước luôn luôn biết ơn những người có công, sự cống hiến hy sinh của họ là tấm biển chỉ đường cho sự tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Với ý nghĩa đó, họ sống mãi trong lòng nhân dân, họ là những vì sao sáng trên bầu trời Việt Nam. Hiện tượng đó là một nét độc đáo trong cách sống cách nghĩ, tâm hồn và bản sắc Việt Nam. Đó cũng chính là vùng lõi của văn hóa Việt Nam.
Theo ngọn nguồn của truyền thống, sau thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, trên cả nước rất nhiều đền thờ đã mọc lên, tiếp tục nối dài tên tuổi các anh hùng liệt sỹ. Hiện tượng đó đã và đang diễn ra trên hầu khắp các vùng, miền, địa phương như ở Côn Đảo, Phú Quốc, Trường Sa, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An…. kể bao nhiêu cũng chưa đủ.
Đề án này xin dừng lại ở Đoàn 559, một thời là một mặt trận rộng lớn, vô cùng ác liệt. Một thời là mạch máu chính cho các chiến trường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Liên quan đến chiến trường này, nhiều đền thờ, đài tưởng niệm đã được dựng lên. Đã có một đền thờ nổi tiếng ở hang Tám Cô gắn với đường 20 Quyết Thắng. Một đền thờ và đài tưởng niệm ở ngã ba Đồng Lộc gắn với 10 nữ anh hùng và hàng ngàn Thanh Niên Xung Phong, dân công hỏa tuyến. Một đền thờ ở Truông Bồn gắn với 13 thanh niên xung phong trên con đường máu lửa. Những địa chỉ văn hóa, lịch sử tâm linh đó là tâm nguyện của mọi người. Ứng xử đẹp đẽ đó với các sự kiện này là hết sức cần thiết. Nhưng dư luận hết sức băn khoăn vì ngay sát ngã ba Đồng Lộc là nghĩa trang của bộ đội phòng không – những chiến sỹ bảo vệ con đường, bảo vệ ngã ba Đồng Lộc. Một bên khách viếng thăm tấp nập, hương khói quanh năm. Còn bên kia, cách đó không xa, thì không có gì, lạnh lẽo. Thỉnh thoảng hoặc mới có người biết và đến thắp hương. Hoặc kề hang Tám Cô là Trạ Ang, trong hai ngày – 29/9 và 1/10 năm 1968, hà̀ng trăm người đưa được 60 phi xăng ngược suối, cấp cứu cho binh trạm 14 thì 29 bộ đội và thanh nên xung phong hy sinh. Cũng ở cuối con đường 20 sát biên giới Việt – Lào, cách không xa hang Tám Cô là ngầm Ta Lê và Phu La Nhíc là hai trọng điểm nổi tiếng. Trong chiến dịch giải tỏa bao vây bằng không quân của địch cuối năm 1968, trong thời gian 1 tháng, ngày cao điểm địch đánh 105 trận bom, trong đó có B52, hơn 200 bộ đội và thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh. Ngầm Ta Lê và Phu La Nhíc được giải tỏa.
Ở đền thờ ngay sát hang Tám Cô, chúng ta đã có sáng kiến ghi thêm đền thờ này là của các liệt sĩ trên đường 20 Quyết Thắng. Ở ngã ba Đồng Lộc chúng ta đã ghi thêm tên danh sách hàng nghìn liệt sĩ trên các vùng miền khác. Điều đó là đúng đạo lý nhưng cảm giác chưa thật đầy đủ. Trong tâm thế của mọi người, đền thờ này chỉ gắn với sự kiện hang 8 cô ở ngã ba Đồng Lộc gắn với 10 nữ thanh niên hy sinh. Có phải chúng ta đã lúng túng như một hình thức xử lý tình thế.
Ngã ba Đồng Lộc, hang Tám Cô, Truông Bồn và còn rất nhiều địa danh gắn với sự kiện khác diễn ra những cuộc chiến đấu ác liệt như ở Trạ Ang, Ta Lê. Nhưng đó mới chỉ là những sự kiện nổi bật trên con đường vận tải chiến lược vào Nam. Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây với 5 trục chính và hơn 20 con đường ngang. Trong 16 năm sống và chiến đấu trên những con đường này, gần 20.000 liệt sĩ đã hy sinh. Hầu hết các anh chị đã cống hiến hy sinh thầm lặng, nhiều trường hợp còn chưa tìm thấy mộ. Phần lớn khi ngã xuống các anh chị đều ở tuổi 18 – đôi mươi. Các Anh Chị chưa có gia đình, nhiều người chưa có người yêu. Họ đã sống, chiến đấu dũng cảm, vô tư, sự hy sinh của họ cực kỳ trong sáng. Với những lý do đó chúng tôi đề nghị cấp chỉ đạo và quản lý nhà nước cần có một công trình Văn hóa, lịch sử, tâm linh phù hợp với gần 20.000 ngàn liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau đây chúng tôi đề đạt nguyện vọng đó.

II. Tên công trình:
“CÔNG VIÊN ĐỒI HOA TRẮNG”
Công trình gồm công viên và đền thờ.
– Tên đền thờ: Đền Cô đền Cậu hoặc đền Anh đền Chị

III. Mục đích đầu tư (Hình ảnh, sản phẩm đầu tư)
Công viên đồi hoa trắng cần nằm dọc con đường 1. Đó là một quả đồi đẹp được trồng hàng trăm loài hoa trắng thơm ngát, có loài hoa trên cây cổ thụ (cây Sưa, cây Mát ,cây Săng lẻ, cây hoa Sữa, hoa Ban, hoa Ngọc Lan…) nhiều loài hoa trên các bục, bồn được thiết kế đẹp và hiện đại dọc ngang đường giao thông nội bộ trong công viên. Thỉnh thoảng trong công viên bố trí những điểm dừng chân có mái che và ghế đá để khách nghỉ ngơi chiêm ngưỡng. Đường giao thông và ghế đá đều được làm bằng các vật liệu màu trắng. Trên đỉnh đồi tọa lạc một đền thờ màu trắng được dựng theo phong cách dáng dấp đền thờ Việt Nam. Từ bốn bức tường, đến mái nhà, cánh cửa nội thất bên trong đều được xây dựng lắp ráp bằng đá cẩm thạch màu trắng. Màu trắng biểu tượng cho sự hy sinh anh dũng của tuổi trẻ Việt Nam ở Trường Sơn. Màu trắng nhấn mạnh sự cống hiến vô tư trong sáng, trinh tiết của các liệt sĩ tuổi trẻ. Nếu ai đó cho rằng đó là màu của tang tóc thì xin thưa rằng đó chính là cái giá của độc lập tự do, cái giá của thống nhất đất nước, thành quả của cách mạng hôm nay. Sự độc đáo của “Công viên đồi hoa trắng” và “Đền Cô, đền Cậu” sẽ tác động mạnh đến giáo dục truyền thống và nhân dân cả nước, nhất là các thế hệ mai sau.
Nếu có thể, xây dựng một bức tường đá cẩm thạch đen, chữ vàng ghi tên gần 20.000 liệt sỹ đặt ở bên phải và bên trái đền thờ.

IV. Hình thức và quy mô đầu tư:
– Thiết kế xây mới, có chủ đầu tư, hình thức đấu thầu xây dựng theo quy định của pháp luật. Công trình có phần kiến trúc, phần xây dựng và cải tạo thành “Công viên đồi hoa trắng”.
– Cải tạo quả đồi, làm đường giao thông chính và giao thông nội bộ, trồng cây cổ thụ, tạo lập các bục, bồn hoa to nhỏ dọc đường dạo bộ, có bàn ghế ngồi nghỉ, có nhà trưng bầy kỷ vật nhà bán hàng lưu niệm, bán hàng giải khát. Đền thờ thiết kế xây mới quy mô không lớn theo đúng phong cách đền thờ Việt nam giản dị khiêm nhường bí ẩn, linh thiêng. Trong công viên có đường ống bơm nước tưới cây.
– Dự kiến kinh phí xây dựng: Công viên trên dưới 15 tỷ và Đền thờ trên dưới 7 tỷ đồng.

V. Địa điểm đầu tư:
Đề án lựa chọn và đề xuất 1 tỉnh miền Trung nơi gắn với dãy Trường Sơn hùng vĩ, chiến lũy của muôn đời. Tiêu chí chủ yếu để lựa chọn địa điểm là địa phương của một tỉnh có nhiều liệt sĩ Trường Sơn, địa phương có nhiều sự kiện gắn với đoàn 559 và trên trục đường một tiện lợi cho du khách tìm hiểu văn hóa lịch sử tâm linh.

VI. Thời gian đầu tư
Việc tiến hành xây dựng mới công viên, đền thờ càng sớm càng tốt. Cần đặt mục đích đền thờ công viên ra đời trước kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam 19/5/2019.

VII. Xác định nguồn vốn
Cần có một lượng vốn khích lệ của ngân sách Nhà nước. Còn lại là kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư theo phương thức xã hội hóa. Trước tiên là các doanh nghiệp xuất thân từ các chiến sĩ Trường Sơn, sau là tâm huyết của các doanh nghiệp cả nước. Với ý nghĩa tâm linh sâu sắc của đề án tin rằng chúng ta sẽ có đủ nguồn lực để thực hiện.

VIII. Xác định quy trình thực hiện
8.1 Trình đề án:
– Trình xin ý kiến chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
– Xin ý kiến của một số đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
– Đơn vị trình đề án:
+ Hội truyền thống Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh Việt Nam;
+ Hội cựu Thanh niên Xung phong Việt Nam;
+ Báo Tiền phong
(Các tổ chức này sẽ là cố vấn trong quá trình thực hiện đề án)
8.2 Chủ đầu tư:
Sau khi có ý kiến đồng thuận của cấp chỉ đạo, Ban Tuyên giáo Trung ương, các đồng chí lãnh đạo đảng, cấp quản lý Nhà nước (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), các cơ quan đơn vị trình đề án (Hội truyền thống Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh Việt Nam, Hội cựu Thanh niên Xung phong Việt Nam, Báo Tiền phong) sẽ làm việc với địa phương (tỉnh) được đề xuất xây dựng công viên và đền thờ với tư cách chủ đầu tư. Tỉnh và các tổ chức tư vấn phối hợp kêu gọi vốn. Từ đây chủ đầu tư (tỉnh) thực hiện đề án theo quy trình của luật xây dựng, lựa chọn địa điểm, lựa chọn thiết kế, lựa chọn nhà thầu, tổ chức thi công.
Sau khi hoàn thành công trình sẽ được giao lại cho địa phương quản lý theo luật di sản.

Ý tưởng và biên soạn
Đại tá, Nhà văn Phạm Hoa
Nguyên lái xe Trường Sơn
Nguyên phó cục trưởng cục tuyên huấn TCCT

NGÀY KHÔNG BÌNH THƯỜNG

         Trời đã sắp sáng. Bạo biết thế vì cô đã thức được một lúc lâu. Đêm qua, Bạo bồn chồn như đứa trẻ ngủ trong đêm ba mươi tết, chỉ thấp thỏm mong trời mau sáng. Một loạt bom xa xa làm cô chợt tỉnh. Từ lúc đó, Bạo không nhắm mắt được nữa. Cô nằm im một lát mới nhỏm dậy. Căn nhà hầm tối, đen như trong hộp, râm ran tiếng ngáy của đồng đội. Cô rón rén bước ra cửa.

         Bên ngoài, trời sáng lờ mờ mát lạnh. Bạo cảm thấy tỉnh táo và khoẻ khoắn. Một cảm xúc háo hức là lạ. Cô muốn chạy vù ra sân. Muốn gọi tất cả mọi người dậy. Bạo dừng lại ngắm những giọt sương đang từ từ tròn hạt. Lúc quay vào nấu cơm ăn sáng, cô đụng đổ cây đèn, rồi lại đụng đổ cả chiếc xoong đựng nước uống trên bàn. Cô phì cười vì sự vô ý của mình.

         Sạp nằm có tiếng cựa mình. Chị Thành quát:

         –        Đứa nào đấy?

         Bạo bịt miệng cười:

         –        Em đây.

         Một lát sau, ở góc hầm có ánh lửa cháy bập bùng. Không riêng gì Bạo, ngay sau đó các cô gái khác đều trở dậy cả. Mới năm giờ sáng, họ dậy sớm hơn mọi khi. Cả căn nhà hầm nhộn nhịp, chứa đựng vẻ khác thường.

         Đó là một buổi sớm của ngày hai mươi – ngày không bình thường của tiểu đội thông tin trên đèo Văng Mu, điểm chốt của điểm cao trên một ngàn mét. Là ngày vui của các cô gái. Hôm nay họ sẽ nhận được thư nhà, thư bè bạn, thư người yêu. Mỗi một tháng họ được nhận thư một lần vào ngày hai mươi. Thư gửi đến sẽ dồn về ban chỉ huy đại đội, cơ quan đóng cách họ những mười lăm cây số dưới thung lũng. Dưới đó, anh liên lạc sẽ dần bóc thư riêng của từng người một đọc dõng dạc qua máy điện thoại. Họ không còn cách nào tốt hơn. Chính năm cô gái trên Văng Mu yêu cầu đại đội làm như vậy. Nếu không chờ thư đến tay các cô lại chậm thêm vài chục ngày nữa. Những lần đầu, bao nhiêu bí mật gia đình, bí mật tình yêu bị bóc trần như ban ngày. Các cô rất ngượng. Lại có thêm vài anh tủm tỉm cười, chế nhạo, các cô la lối lên. Đại đội trưởng phải ra lệnh cấm không được ai bén mảng lên nhà đại đội khi cậu liên lạc đọc thư vào máy. Tất cả quen dần thành nếp sống bình thường của năm chiến sỹ thông tin trên điểm cao. Từ đó, ngày hai mươi trở nên gần gũi thân thiết, là ngày mong chờ của các chiến sĩ. Một ngày vui thực sự, ngày họ được hòa nhập vào đời sống hàng ngày của những người thân ở phương xa. Đó là ngày thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối với những người đang yêu như Bạo. Nhất là chỗ ở của các cô gái lại chót vót trên cao một ngày hàng chục trận bom giội xuống, thiên nhiên lại tàn khốc, là nơi bom đạn ác liệt, là nơi mà nhiều bạn bè không quen biết…

         Bạo vẫn hí húi nấu cơm trong góc hầm. Cô mặc chiếc áo mỏng không có tay, mặt đỏ rực lên vì nóng. Sáng nay Bạo có vẻ bận rộn và vụng về. Đánh đổ đèn, đánh đổ xoong là Bạo. Bỏ quên hộp thịt đã mở dưới đất cho kiến vào cũng là Bạo. Chốc chốc lại thấy chị Thành hỏi vọng vào:

         –        Đứa nào đổ nước ra cửa hầm tràn cả vào nhà đây?

         Bạo chạy ra cửa xem, tủm tỉm cười:

         –        Em.

         –        Lại em. Đãng trí quá em ạ.

         Trong hầm, các cô gái vội vã thu dọn những đống dây điện, đống cuốc, xẻng vào góc. Căn hầm sáng sủa và rộng rãi hơn. Một điều lạ nữa là hôm nay: không ai bảo ai, các cô đều chải tóc soi gương tỉ mỉ như trong ngày sẽ có khách đến chơi.

         Tiểu đội có Minh là nhỏ nhắn, thanh mảnh được coi là đẹp gái nhất. Minh rất hay tỉa tót làm dáng, nhưng cô vẫn thầm ghen với nước da đỏ thắm của Bạo, Minh đẹp một cáchyếu ớt, Bạo đẹp một cách khoẻ khoắn và tháo vát. Đó là mội đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô “tôi” trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt thành và say đắm.

         Cả tiểu đội có năm chị em. Chị Thành không giống các cô. Chị cao và nhỏ người, nắng chiến trường làm nước da chị đen sạm và khắc khổ. Chị hơn các cô một tuổi. Ý thức làm chị của Thành rất rõ. Các cô gái ở đây đều rất nể và sợ Thành. Có lẽ chỉ có Bạo là người dám nói đùa với chị. Thành cũng rất mến Bạo. Mặc dù Bạo có ngang tàng đôi chút, nhưng lại dũng cảm, việc phá mìn vướng, cả đại đội không ai giỏi hơn Bạo.

         Bạo bê nồi cơm nóng hổi đặt ra tảng đá. Cùng lúc đó chiếc máy điện thoại đặt trên bàn nứa rung lên bần bật. Một hồi chuông dài và gắt. Thành dẹp sổ theo dõi công việc sang bên, chạy tới cầm máy. “Hồng Hà đâu…”. Một giọng đàn ông ồm ồm cộc lốc của ông trung đoàn trưởng pháo. Ông nói một câu ngắn của người quen ra mệnh lệnh.

         –        Khu vực dê sáu tám (D68) bị mìn vướng, đứt toàn bộ dây. Yêu cầu sáng nay phải nối cho họ trực chiến.

         Thành buông máy nhẩm tính toán luôn. Chị có thói quen sắp xếp công việc ngay sau khi nhận điện. Tổng số dây điện khu vực tiểu đoàn pháo vị chi là hai ki-lô-mét. Vừa phá mìn vướng vừa rải dây, nối dây, mất đứt hai người, một ngày vất vả. Sau đó chị giục mọi người đi ăn cơm. Trong đầu Thành thoáng linh cảm thấy rằng: công việc hôm nay sẽ rối mù lên cho mà xem. Nắng đẹp thế này, nhất định nó sẽ đánh mạnh.

         Năm người con gái ngồi xúm quanh chiếc bàn ăn nhỏ. Chiếc ghế buộc bằng ba đoạn nứa võng xuống phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Minh sốt sắng nhất. Nhỏ người nhưng rất nhanh. Ba cô chớp được ba cái bát lành. Bát của chị Thành tất nhiên là không cô nào dám tranh. Còn lại là chiếc bát thủng trôn vì bom bi. Bạo phải dọn dẹp bếp núc nên chậm chân ra sau. Cô cầm chiếc bát hỏng lên, nhất định không chịu thua!

         –        Hôm nay đến lượt đứa nào ăn bát thủng!

         –        Cái Minh.

         –        Ứ! Hôm qua em ăn bát thủng rồi.

         –        Mới có buổi chiều. Phải cả sáng nay nữa mới đủ một ngày.

         –        Không.

         –        Này.

         –        Không.

         –        Này.

         Giằng nhau một lúc, Bạo cười:

         –        Thế mày gọi tao là chị tao nhường cho.

         –        Thì chị. Nào chị Bạo ơi!

         –        Dạ đi.

         –        Dạ. Được chưa.

         –        Được. Em ngoan ăn cơm rồi đi phá mìn cho giỏi nhé. Chị cưng, chị thương.

         Bạo còn đáo để vuốt đầu Minh mấy cái, chị Thành giục họ mới bắt đầu bưng bát. Miếng cơm vừa trôi khỏi miệng, lại có điện thoại. Lần này là điện dưới đại đội công binh gọi lên. Đường dây từ đơn vị gọi lên sở chỉ huy sư đoàn tiền phương bị đứt. Một giờ đêm qua ở dưới đó có một quả bom nổ chậm bất chợt nổ.

         Bữa ăn lại được tiếp tục. Vẫn cái đà vui vẻ một cách khác thường ấy, Bạo dọa sẽ mách tay đại đội trưởng pháo là Minh ghẻ ruồi. Bao giờ Minh cũng yếu lý lẽ hơn. Cô chỉ còn biết chê cái tên của Bạo, cái tên thô như một người lên gân. Ai lại Quang Bạo, Minh Bạo hay là Thành Bạo dù sao nghe vẫn vương vướng. Cái tên này phải hình dung ra một cô gái to béo gân quốc, đáo để…

         Một loạt bom. Rồi một loạt nữa. Ba loạt cả thảy, cả hầm lắc mạnh như sắp vỡ đôi. Sau đó là tiếng phản lực sà rất thấp, có cảm giác như các ngọn cây cũng bị gió quật tung. Các cô gái nhìn nhau, đoán:

         –        Chắc ở cây số mười.

         –        Không! Cây số mười bốn.

         –        Có khi sát chân đèo.

         Họ còn đang xác định vị trí bom rơi thì có điện. Từ lúc đó, điện gọi tới tấp lên tổ chốt thông tin. Đơn vị nào cũng la ầm lên đường dây liên lạc của họ bị đứt. Các cô gái phải ăn cơm nhanh hơn. Thành hết nhận điện của đơn vị này lại cắm phích nghe đơn vị khác. Anh nào cũng to mồm đòi phải nối dây ngay tức khắc, Thành phát bẳn lên, quát vào máy:

         –        Từ từ đã nào. Làm gì mà các ông hét ầm lên như thế? Phải hiểu cho người ta chứ.

         Thành buông máy sững sờ giây lát. Chị giắt lại mấy sợi tóc vương trên má, nhẩm tính. Dê sáu tám hai người. Đại đội công binh một người buổi sớm, buổi chiều lên sư đoàn bộ. Xuống lèn đá một người. Rồi chị tặc lưỡi thầm nghĩ: bận mấy cũng chẳng bằng đêm hôm kia. Ba lần B.52 ném bom luôn xuống đèo. Quả nổ, quả không. Vừa rải dây, nối dây mất một ngày một đêm mới xong. Cùng lắm chỉ bằng hôm đó chứ mấy? Các cô gái đã biết trước tình thế. Họ đứng dậy sau bữa ăn. Cô nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Có cô đã đội mũ sắt, khoác súng vào người.

         Chị Thành và miếng cơm cuối cùng rồi đứng dậy nốt… Chị phân công việc luôn. Năm người đều ra mặt đường cả. Bạo và chị sẽ xuống Dê sáu tám. Khi đi mang theo dụng cụ phá mìn vướng.

         Thoắt một cái họ đã đứng ở ngã ba rẽ đi các hướng. Họ vội vã chia tay nhau. Đến chỗ ngoặt Minh vẫn còn ấm ức với Bạo. Cô giơ nắm tay nhỏ xíu lên dọa:

         –        Tối nay, nối dây về sớm “ông” nhận thư của mi qua điện thoại cho coi, “ông” sẽ nhận là Bạo.

Bạo cười to:

         –        Thách Minh đấy! Thách đấy!

         Bạo khoác tấm lá chắn cao ngang đầu đi trước. Tấm chắn là vật che mảnh đạn hình tam giác, được kết bằng những nùn rơm to và chắc như bắp tay. Dụng cụ phá mìn còn có cây sào dài bảy tám mét, có chạc dùng để quơ những sợi dây mìn vướng nhỏ như sợi tóc. Loại mìn vướng này rất nhạy và rất hiểm độc. Một cơn gió thoảng qua cũng có thể làm cho mìn nổ. Hai người còn luồn sào phá mìn một cuộn dây điện nặng chục cân.

         Bạo là cô gái siêng năng và chăm chỉ. Khi yêu, tình yêu của cô cũng rất mạnh mẽ. Trong tâm hồn cô gái trẻ này một khoảng rộng yên tĩnh, đằm thắm và thiết tha dành cho người mình yêu. Vốn sinh ra trên đồng đất trồng màu ven sông Hồng, Bạo rất chân thật và hơi vụng về. Gần như không biết viết thư, không biết nói những câu hoa hoè hoa sói. Ở giữa điểm cao như vùi mình trong bom đạn, đời sống đơn giản đi nhiều lắm. Công việc bình thường ở đây là ăn ngủ, phá mìn và nối dây điện. Không hề có thứ công việc nào xen lẫn, không khái niệm thứ bảy, chủ nhật. Không có một giờ rảnh rỗi. Vậy mà trong mỗi lá thư bao giờ Bạo cũng mở đề bằng câu: “Hôm nay nhân tiện ngày chủ nhật” hay “Hôm nay nhân tiện trời mưa…”, có hôm cái Minh vớ được mẩu thư viết dở, nó tò mò xem rồi đọc toáng lên. Bạo đứng đực ra nhìn, mặt cô đỏ gay, một lúc mới biết chạy tới giằng miếng giấy lại. Thế mà Bạo còn làm thơ gửi cho anh sinh viên rất giỏi chữ nghĩa. Đại khái cũng câu ba câu bảy gập ghềnh như đá dưới lòng suối cạn:

         Bèo hp lại tan

         Hoa nở rồi tàn

         Nhưng tình yêu giữa đôi ta không đứt

         Như sợi dây em nối đêm ngày…

         “Tìm bảy ngày cũng không thấy vần” – Vẫn cái Minh ranh mãnh nó vớ được, đọc xong nó nói như vậy. Từ đó, mỗi lúc hậm hực điều gì muốn trả thù, Minh lại lấy giọng ê a ngâm:

         “Bèo hợp rồi lại tan…” thế là đủ để Bạo toát mồ hôi hột, chịu thua. Mãi sau này Bạo phải mặc cả đổi chỗ nằm gần cửa hầm cho Minh, nó mới chịu quên cái đoạn thơ khổ sở đó đi cho.

         Thế nào chiều nay Bạo cũng có thư. Cô tin rằng lá thư sẽ rất dài. Từ chiều hôm qua Bạo đã linh cảm như vậy. Niềm tin ấy làm Bạo bồn chồn thích thú. Cô vui khác ngày thường. Bạo cảm thấy mình yêu cuộc đời hơn yêu mảnh đất chiến trường mà cô đang sống, yêu mọi người. Cô tự hứa từ nay cô sẽ dễ dãi hơn đối với Minh. Không kể chuyện ma con khỉ độc dọa nó nữa. Cô yêu cả con đường gập ghềnh này, cả những ngọn cây cỏ xanh này, cho đến con chim đang hót xa xa…

         Hai người đi sâu vào cánh rừng le tốt ngập đầu. ở đó lác đác có những cây cọ rừng mập mạp xanh tốt, lá vươn dài như lá dừa. Thỉnh thoảng mới thấy những cây khộc già nua đầu cành đang nứt những búp lá non tơ. Cho đến lúc nghe tiếng ho của một pháo thủ và con gà cục ta cục tác trong khẩu đội gần đó, thì họ dừng lại. Đã đến khu vực mìn vướng nổ. Nhiều trái tự hủy, để lại một đám đất nát bét và một khoảng cây cối giập, gãy xơ xác.

         Chị Thành quan sát xung quanh rồi nhận xét:

         Dây mìn đấy, Bạo ạ! Mắt thường mà cũng trông thấy một quả kia kìa!

         Bạo nhìn theo hướng bàn tay Thành. Một trái mìn màu xám xù xì nấp dưởi một cành cây nhỏ. Cô quạt bằng mũ sắt, tắc lưỡi:

         –        Kệ nó chị ạ. Chọc một cái là nó nổ, sợ gì!

         Bạo nói rồi vẫn ung dung ghếch AK lên đùi, cầm mũ sắt quạt. Trời nóng. Trên đôi má đỏ chín của Bạo đã có mấy giọt mồ hôi. Khi đã buộc lại tóc thật gọn, xắn quần xắn tay áo, họ mới đứng dậy bắt đầu công việc. Bạo dựng lá chắn lên, chống thật chắc chắn. Cô ngồi thụp phía sau như một đứa trẻ đi trốn. Chị Thành đứng xa hơn làm nhiệm vụ rải dây. Bạo đưa sào lên phía trước. Cô chỉ cần vung sào, khuấy động cành cây ngọn cỏ, chạm vào bốn sợi dây vướng nổ là trái mìn sẽ nổ.Trái mìn đầu tiên Bạo phá hôm đó lại không phải là trái chị Thành trông thấy. Đó là quả vùi sâu trong đống lá mục. Cô vừa tung sào bất thần đã có tiếng nổ. Bạo giật bắn người rồi lại cười khanh khách. Bụi chưa tan, cô đã dịch lá chắn về phía trước rồi giải lao một phút. Cô hỏi chị Thành:

         –        Sinh viên đại học chắc họ sống sướng lắm chị Thành nhỉ? Ông bạn em ông ấy viết thư, em cảm thấy các ông ấy sang trọng lắm. Có đúng không chị?

         –        Đấy là em cảm giác thế. Họ cũng vất vả lắm. Họ ở một phòng mười hai người cơ đấy!

         Bạo lẩm bẩm:

         –        Có thể là như vậy.

         Bạo lại thu mình sau tấm lá chắn. Cô đưa sào về phía trước. Trái mìn lần này gan góc hơn. Bạo phải quơ chục lần nó mới nổ. Tiếng nổ vẫn rất to làm Bạo giật nẩy mình, cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi quay về phía Thành nói chuyện tiếp.

         –        Em có một miếng vải hoa rất đẹp. Em sẽ cắt một chiếc áo lót thật nghịch ngợm, cổ theo kiểu trái tim xoay về vai trái. Hàng khuyết sẽ xẻ bên hông.

         Nói xong chưa kịp nghe Thành trả lời, cô lại ngồi thụp xuống, dịch tấm lá chắn về phía trước. Bạo phá mìn say mê tỉ mỉ và ung dung làm người khác đến phát thèm lên được. Đó là cung cách phá mìn rất bình tĩnh, thông minh mà chị Thành cũng khâm phục. Công việc này rõ ràng không thể để một người vội vàng, hấp tấp làm được.

         –        Ngày còn ở nhà ấy mà, cái “lão” người yêu của em bấygiờ còn nhỏ và yếu hơn em cơ. Có hôm đi chăn bò ngoài bãi sông Hồng, em dọa cho sợ, phải đuổi bò về nhà cơ đấy.

         Thành cười:

         –        Thật là đáo để.

         Thành cũng có biết qua người yêu của Bạo. Cái anh chàng quá trẻ ngồi vắt người qua lan can thềm nhà chụp một kiểu ảnh rất điệu. Thành không chê gì anh ta. Chị chỉ thoáng ngờ vực trong lòng một điều, hình như Bạo sắc sảo hơn anh ta quá nhiều. Trong cuộc đời thực, liệu đôi trai gái này có sánh vai nhau được không? Bạo đã phá đến trái mìn thứ năm, thứ sáu… Họ đã trông thấy khẩu đội pháo xa xa. Rất lạ là hôm nay, Bạo không quen được với tiếng nổ. Mỗi một tiếng mìn dội lên Bạo vẫn giật nẩy mình quay lại cười khanh khách. Chị Thành thấy Bạo có vẻ chủ quan quá, quát vọng lên:

         –        Bạo! Chú ý vào. Coi chừng đấy!

         Bạo cười, đôi môi đỏ chót rất xinh.

         –        Chị yên tâm. Một mình em đã phá hàng nghìn quả mìn rồi.

         Niềm vui ấy lan sang cả Thành. Phải, chị rất tin tưởng Bạo, nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra lắm chứ? Công việc quen thuộc của Bạo là phá mìn, nhưng ai biết đâu được, bất cứ một sự chủ quan nào chẳng gây ra tai nạn? Phía trước kia, trong những bụi cây lòa xòa hiền lành, một ụ đất mấp mô hay dưới đám lá mục, là những cái chết bất thần đang rình núp chờ đón; nhất là hôm nay Bạo lại có vẻ coi thường. Nghĩ như thế, tự nhiên Thành ứa nước mắt. Chị yêu Bạo quá. Chị muốn đối xử dịu dàng với Bạo, muốn cho Bạo cái gì. Đứng trước những người tốt người ta thường có những ý nghĩ trong lành hơn. Chị Thành đứng ngẩn người ra nhìn Bạo hồi lâu. Cô ấy vẫn cúi lom khom sau chiếc lá chắn. Và hễ cứ sau mộ trái mìn nổ, Bạo quay lại chuyện trò. Vẫnlà dòng suy nghĩ sôi nổi của Bạo về bạn, về người yêu. Sau khi nói xong chẳng cần biết Thành có nghe hay không, cô lại quay về phía trước dịch tấm lá chắn lên.

          Họ trở lại Văng Mu lúc sương mù đã kết thành từng cục đặc sánh trên đầu. Bất ngờ lý thú là lúc đi cả tiểu đội chia tay nhau ở chỗ rẽ, lúc về lại gặp nhau đúng chỗ ấy. Đủ mặt năm người, Bạo trông thấy từ xa Minh đi trước. Nó thất thểu vì đói và nhọc.

         Cứ sau một ngày lăn lộn ngoài đèo khuôn mặt đầy đặn của nó lại bị vơi đi một tí. Bạo vẫn tỉnh như không, gọi rối rít:

         –        Tớ cứ tưởng cậu về lâu rồi!

         –        Thì người ta cũng tưởng đằng ấy về lâu rồi.

         –        Tớ làm mà cứ nóng cả gan ruột. Chỉ sợ cậu về trước mệnh danh tớ, nhận thư.

         –        Tớ mà về trước xem, chả phải bàn.

         –        Thôi thôi các cô! Chóng lên. Còn khối việc phải làm ra đây.

         Họ vào đến trước sân, chị Thành đã buộc xong hai chiếc tăng vào những gốc cây nhỏ. Những chiếc tăng xòe nặng buộc thõng xuống để hứng sương đêm lấy nước dùng. Mỗi đêm một tấm tăng rộng có thể hứng được một lít nước. Mười chiếc tăng hết đêm họ sẽ dồn được mười lít nước. Thứ nước kết tinh từ hơi sương trong ngăn ngắt. Trừ khi bom đánh gần, hơi sương qua khói thuốc đạn sẽ đắng ngắt như pha thuốc ký ninh. Các cô gái lần lượt căng những chiếc tăng ra đón nước. Sương dàylàm ướt cả mặt, cả tóc. Khu đèo lạnh hẳn xuống vài độ.

         Tối hôm đó các cô gái ăn cơm rất nhanh chóng. Hầu như ai cũng vội, cũng mong cho đến cái giờ phút mong chờ ấy. Các cô không đùa ầm ĩ nữa. Cái Minh nhỏ bé lại còn tỏ ra chín chắn, nó nói:

         –        Biết mình có thư không mà trông. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không đến sẽ không đến.

         Bạo vạch mặt:

         –        Rõ đồ nói khoác. Có thật không mong thư không? Thế thì cử cậu đi sửa đường dây lên sư bộ nhé.

         –        Ứ, tớ cũng có mong.

         Bạo cười ha hả. Chưa đến sáu giờ tối, các cô đã xúm xít bên tảng đá. Ai cũng tỏ ra bình thản. Chỉ có Bạo vẫn xông xáo đứng trong cùng, là người cầm ống nghe máy điện thoại. Phải đến hai chục phút rồi, Bạo vẫn chưa liên lạc được với đại đội. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng sét nổ sàn sạt, rầm rầm trong máy điện thoại, cầm lấy ống nghe giật nẩy tay lên.

         Bạo sốt ruột gắt:

         –        A-lô… Thăng Long đâu. Cắm dây cho chặt vào.

         Cuối cùng sự mong chờ của các cô gái đã được thỏa mãn. Tiếng cậu liên lạc rõ mồn một trong máy. Cậu ta bảo mọi người đều có thư, trừ chị Thành. Tất cả các cô thở phào một tiếng. Thư của Bạo được đọc trước. Mặt cô đỏ ửng lên, cô đứng vào nghe máy, nụ cười bỗng nở trên môi ngượng ngập.

         Mọi người chăm chú nhìn Bạo. Họ không được nghe đọc thư, nhưng tò mò muốn biết Bạo có tin lành hay dữ. Tin buồn hay vui. Bắt đầu mặt Bạo đỏ chín, nghe đọc thư, cứ thế cô tái dần đi. Một tay Bạo buông thõng xuống. Các cô ngạc nhiên sợ hãi nhìn Bạo. Giây phút căng thẳng ấy cũng chấm dứt, khi Bạo chuyển ống điện thoại cho Minh. Mặt Bạo chợt đỏ bừng, mấy giọt nước mắt nóng hổi lăn rất nhanh qua má. Cô ấm ức dằn từng tiếng:

         –        Hắn vẫn chẳng xưng anh với mình. Cóc cần!

         Các cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Cứ thế lần lượt từng cô. Họ xếp hàng chờ đến lượt mình vào nghe cậu liên lạc đọc thư. Thời gian vẫn trôi đi. Ở Văng Mu, một tháng lại có một ngày không bình thường như vậy. Nhưng nói cho cùng, cái ngày ấy cũng là ngày bình thường trong suốt bốn năm trời dài đằng đẵng trên điểm cao Văng Mu của những người lính.

Mùa hè 1980

NGUYÊN VẸN

         Trong cái đám trẻ làng tôi có thằng Nam. Nó lớn hơn bọn cùng tuổi một cái đầu. Ai cũng nghĩ bố nó làm to, lương cao, ăn uống sướng, nên nó phổng phao hơn bọn cùng lứa. Vào những buổi trưa, người ta vẫn nghe từ trong bếp nhà nó vẳng ra tiếng “xèo” cực kỳ hấp dẫn. Rồi sau đó, không gian thơm phức mùi hành chiên, mùi thịt rán. Nghĩa là những sự kiện bình thường ở nhà nó thì làng này chỉ có ở ngày quốc khánh, ngày ăn gạo mới (tục lệ mừng mùa gặt tháng mười) hay ngày giỗ, tết. Đó là cái lý để da dẻ nó lúc nào cũng đỏ đắn, sáng bóng.

         Nam lớn như vậy, học thì nhanh, thông minh, nhưng láo nhất hạng. Cô giáo rất nể bố nó. Mọi người vẫn thấy mỗi lần ông về quê, xe đỗ ở cổng trường, cô giáo bỏ cả giờ đang lên lớp nói chuyện với ông. Không rõ ông nói gì mà đám học sinh cứ trố mắt nhìn cô khoanh hai tay trước ngực vâng ạ, vâng ạ. Cô tiễn ông ra tận xe mới quay về bục giảng. Chứ bố nó mà đi cày như mẹ nó thì coi chừng! Cái vụ thằng Nam vẽ cô giáo cởi truồng, hai cái vú to như cái bình tích thì có mà bị đuổi học sớm.

         Sự việc trên làm cô rất bực. Cô gọi nó lên giam nửa ngày. Nhưng thâm tâm, cô không ghét nó. Cô biết nó rất thông minh. Chỉ tội bướng và nghịch. Tuy vậy cô cũng nhận ra dấu hiệu một người đàn ông tràn trề sức sống trong nó. Nghịch thì nhất mực, nhưng hình như nó hồn nhiên và ngây ngô. Nam không láu lỉnh và khôn vặt như vài đứa ở lớp. Cũng còn có dư luận rằng cô giáo cảm tình riêng với Nam. Nghe tin cô đang yêu em út của bố Nam thì phải. Cái lão ấy đẹp trai lắm.

         Đấy là ở trường. Còn ở nhà, Nam gây không ít sự rắc rối. Trong quãng đời ấy, Nam thù nhất lão Tộ. Lão Tộ là bộ đội Điện Biên về làng, giữ chức bảo nông chuyên nghiệp. Lão Tộ giống như vị thần sét trong trí nhớ của bọn trẻ. Đã đen, đi đâu cũng lì lì cầm con dao quắm dài. Thành thử đứa nào cắt cỏ trộm trong ruộng màu, trông thấy lão là đái ra quần. Người lớn thì nhận xét lão chừng mực, đứng đắn. Còn trẻ nhỏ thì trông thấy lão đã sợ. Vì đứa nào ít nhất cũng hơn một lần để trâu ăn lúa, hay vặt trộm cam của hợp tác. Hôm đi chơi ngoài bờ sông về, lũ trẻ rủ nhau hái trộm cam xanh của hợp tác. Hoan hô! Bọn trẻ reo ầm lên về sáng kiến đó. Hơn nữa ăn trộm cam thì dễ lắm. Có mỗi ông già đi cà nhắc trông vườn. Còn bờ rào ư? Nhảy phắt một cái là qua. Nam dường như là chỉ huy trưởng của cuộc lấy cắp ấy. Cậu phân cho đứa đánh lạc hướng ông già, đứa chiến đấu với con mực lực lưõng có thể xông ra. Còn Nam, dẫn ba thằng xung kích vào vườn. Đang tả xung hữu đột thì có tiếng chó sủa, rồi tiếng hô hoán ầm ĩ. Mọi người đổ ra. Vừa vọt khỏi bụi gai ra đường, Nam đã đứng sững lại. Trước mặt cậu đã là lão Tộ mặt lạnh như đá, mắt long lên giận dữ. Tất nhiên là Nam cãi phăng. Tôi đuổi một con chuột trong vườn. Nam nói vậy. Nhưng lão Tộ gian manh không kém. Lão cầm lấy tay Nam lên ngửi! Đích thị mùi cam. Lão tóm luôn Nam đưa lên trụ sở. Sợ đếch gì! Thì đi. Nhưng mà ai kia? Nam dừng mắt rất lâu trên khuôn mặt con Doan. A! Ra mày! Chắc chắn chỉ có mày! Nam rít lên không thành lời. Mày mách bố mày chứ gì? Rồi mày biết tay tao. Thầm nghĩ như vậy, rồi Nam cùng mấy đứa theo lão Tộ về trụ sở. Đứng sau bố, Doan run cầm cập. Cô bé sợ nói to, quát to, và sợ ăn cắp lắm. Nó giương đôi mắt tròn, rất sáng nhìn đám con trai lớn tuổi hơn bị bố mình bắt. Và đây là sự kiện đầu tiên mở đầu cho bao nhiêu chuyện rắc rối sau này.

         Tất nhiên là Nam cùng lũ bạn được thả. Ngay chiều hôm đó, kế hoạch trả thù được thực hiện. Năm thằng rúc trong bụi găng chờ con Doan đi học về. May quá, hôm nay nó là đứa lững thững đi sau cùng. Nam móc ra từ trong túi một con chuột đã được bóp chết. Chờ đúng lúc Doan đi qua năm đứa mới lững thững bước ra. Đứng lại! Nam nói bình tĩnh. Giống như trong bộ phim nào đó; quả là Nam có bị ảnh hưởng điều ấy. Trước tiên hai đứa giữ lấy tay Doan. Con bé đã ngơ ngác nhìn quanh. Mặt nó tái đi. Và khi Nam bình tĩnh khoác con chuột to, mềm nhũn kéo lên cổ Doan thì cô bé thét lên, không còn hồn vía nào nữa, vứt cặp bỏ chạy. Nó vấp ngã túi bụi. Chừa thói mách lẻo nhé! Cả năm thằng cùng vỗ tay cười rầm rĩ, trong lúc Doan vừa chạy vừa kinh sợ nhìn lại. Bõ hờn nhé. Tưởng thế là xong, ai ngờ tối hôm đó, lão Tộ xuất hiện. Không phải một mình mà cả Doan. Con bé mặt mày thâm tím. Nhút nhát và sợ hãi nép bên ông Tộ, Doan giống con gà nhỏ vừa bị sa xuống hố nhặt lên, Nam trố mắt ngạc nhiên! Có ai đánh Doan đâu nhỉ? Cu cậu chợt thấy ân hận, Nam hoang mang nhìn trộm vào mặt Doan. Còn ông Tộ, tưởng sẽ hùng hổ lôi Nam ra cho một trận, thì lão lại chỉ kể lại cho mẹ Nam nghe. Vốn là người đàn bà nóng nảy nhưng thẳng tính, ông Tộ vừa ra khỏi ngõ, mẹ Nam đã trói Nam vào gốc cau, Nam đưa tay cho mẹ không hề giẫy giụa. Mẹ Nam quấn từng vòng dây vải màn. Rồi bà rút chiếc roi tre xuống vụt túi bụi. Này! Mất dạy. Này hại cơm tao. Nam im lặng chịu đòn, không kêu ca, phản đối. Những roi sau, bà mẹ đánh càng đau hơn. Giá như Nam kêu van, xin lỗi, chắc trận đòn sẽ sớm chấm dứt. Đằng này nó thi gan. Bà mẹ càng đánh càng điên lên như bị đứa con thách thức. Sự thương cảm bắt đầu có được về Doan dần dần mất hết trong Nam. Một lần nữa cậu lại tức tối khẳng định: Vì con nhãi nhép mà ông bị đòn.

         Trận phục thù lần sau tai quái hơn. Nhà lão Tộ có vạn cây mía đỏ trồng ven sông. Gió heo may mía bắt đầu ngọt dần. Và vì thế, cũng nhiều lá mía khô trắng xóa. Vườn mía ấy là nguồn sống chính của nhà lão Tộ. Nam bàn với lũ bạn phết bùn lên lưng trâu buộc rạ rồi đốt cháy đùng đùng. Khi lửa cháy, trâu sẽ chạy lồng lên vào bãi mía. Quả nhiên, đám lửa trên lưng trâu vừa bốc ngùn ngụt, con trâu mộng đã lấc láo bỏ chạy. Càng to lửa, nó càng lồng lên. Nó lao vào bãi mía, dụi lưng dập lửa. Trong nháy mắt, mấy sào mía bốc cháy như bó đuốc. Trò chơi dại ấy của lũ trẻ do Nam chủ mưu vô tình đẩy nhà ông Tộ đến bờ vực thẳm. Khi ông Tộ hớt hải từ nhà chạy ra thì ruộng mía đã cháy đen thui, khói bốc nghi ngút mùi mật. Trời hại ta! Chiến sĩ Điện Biên như ông Tộ mà bật khóc hu hu. Ông bất lực, bứt đầu, bứt tai khóc thành tiếng.

         Trong năm đó người ta thấy Doan đi học phải mặc áo rách. Và hình ảnh này, suốt đời Nam không sao xóa được. Hôm nhà trường tổ chức lao động, mọi người giở cơm ra ăn. Mo cơm của Doan toàn thấy khoai là khoai. Có lẽ cơm chỉ đủ để kết dính những lát khoai lại với nhau. Từng chồng khoai lát trong bữa ăn của Doan thật giống những xếp tiền bằng đồng đã rỉ chồng lại. Dù chỉ trong tích tắc liếc mắt trông thấy nhưng Nam không bao giờ quên được Doan nghẹn lại mỗi lúc nuốt miếng cơm đó vào bụng. Mẹ Nam đền bù cho ông Tộ hai tạ thóc. Nhưng thấm vào đâu. Trong năm đó, gia đình ông sinh hoạt sa sút trông thấy. Tuy còn nhỏ, nhưng mặc cảm tội lỗi không buông tha Nam. Cuối tháng đó, nhân dịp bố về, cậu đã ăn cắp tiền của bố. Một lượng tiền khá lớn. Hình như là hai tháng lương của ông. Nam gói ghém thật cẩn thận rồi đang đêm đến bờ rào, ném số tiền rơi sát giếng nước. Hơn một ngày theo dõi, Nam vẫn còn thấy gói tiền nằm nghiêng bên bờ gạch. Chỉ ngay hôm sau thì không thấy gói tiền nằm đó nữa. Với tư duy ngay thẳng và đơn sơ của Nam, cậu tin rằng gói tiền đó đã được chuyển hóa vào túi tiền nhà ông Tộ. Quan trọng nhất là Doan sẽ có áo mới, sẽ không phải ăn khoai mà cơm chỉ là cái cớ. Từ sâu thẳm trong lòng, cậu thấy yên ổn.

         Đó là dấu chấm hết cho cái tuổi học trò tai quái của Nam. Dạo ấy Nam đã lớn lắm. Cậu trở thành một chàng trai phổng phao, mạnh mẽ. Mẹ Nam cứ nhìn Nam mà thầm hài lòng. Càng lớn, tính Nam càng đằm hơn. Cậu cởi mở, vui tính, biết sống với mọi người. Không ai có thể ngờ cách đó chưa lâu Nam còn là cậu học trò vẽ cô giáo cởi truồng lên bảng đen.

         Với Doan, tự nhiên Nam cứ thấy có khoảng cách vời vợi.Anh cứ bị hình ảnh Doan vướng trong đầu. Nhưng gặp thì không. Và hình như vẫn trông thấy nhau, nhưng mấy năm liền Nam không nhìn được vào mắt Doan. Cô bé cứ thấy anh là lảng đi và anh cũng né tránh vì ngượng. Dạo ấy Doan đã lớn lắm. Cái dáng bé nhỏ khẳng khiu ngày nào bây giờ đã trở nên đầy đặn và mềm mại. Người ta đã thấy khuôn ngực cô rung rinh sau làn áo mỏng. Chỉ cuối năm đó sự phát triển của tuổi dậy thì đã đưa Doan lên hàng cô gái đẹp nhất làng.

         Ở làng tự dưng hình thành mối tương quan. Người ta nghĩ, người ta nhìn nhận, người ta bàn tán. Họ bảo cái Doan với Nam thì đẹp đôi lắm, hợp lý lắm. Lời bình ấy đến tai Nam, anh thấy niềm sung sướng mơ hồ cứ dấy lên. Và tiềm thức đã xui khiến anh mỗi lúc đi học về ngày nào cũng đi vào xóm giữa. Con đường ấy về nhà thật gập ghềnh. Nhiều khi xe đạp nhảy tâng tâng. Nhưng anh vẫn chọn nó để về nhà mình. Cái xóm giữa có gốc cây gạo đỏ hoa, và bầy sáo đen ríu rít kéo về. Hẳn cây gạo có đẹp cũng đóng một vai trò nào đó thôi. Chủ yếu là Doan. Cái ngõ nhà cô sát cạnh. Nam muốn được nhìn thấy Doan. Mặc dù với ông Tộ, Nam vẫn thấy trong lòng ngài ngại. Dần dà, một ngày không bắt gặp Doan một lần, Nam thấy bồn chồn, thiếu vắng.

         Còn Doan, lời bàn của xóm giềng đã đến tai cô. Nhưng thật dửng dưng. Ấn tượng về con chuột mềm nhũn bị khoác vào cổ làm cô không thể nào nhìn mặt hắn được. Trong con mắt cô, Nam vừa tàn ác, phũ phàng, vừa là con nhà giàu, không nên dính dáng đến anh ta. Cô kiêu hãnh với cái nghèo nhưng giản dị đầm ấm của nhà mình. Chẳng cần gì mà thấy người sang, bắt quàng làm họ. Vì thế, câu chuyện vào tai cô lại lọt ra ngoài. Cô thừa biết sự săn sắn mà Nam đang dành cho cô, cũng như việc anh ta đi học về xóm giữa cũng là để giáp mặt mình. Lòng cô tĩnh tại đến mức có gặp Nam, hay anh mỉm cười, cô vẫn lặng lẽ đi qua như không hề gặp ai. Như hôm cách đây chưa lâu, khi Nam đi học về, trùng đúng lúc Doan vừa ra ngõ. Rõ ràng Nam lên tiếng từ rất xa. Nhưng thật tự nhiên, Doan đã kịp ngửa mặt nhìn lên trời, nơi có những cánh tay lực lưỡng vươn ra từ cây gạo cổ thụ đầy hoa đỏ. Mà lạ thay, từng cánh hoa gạo chả đẹp gì. Vậy mà từ xa nhìn tới, cây gạo đỏ rực một góc trời, vẻ đẹp đầy sắc màu, khêu gợi. Anh ta dừng hẳn xe lại, miệng nở nụ cười, định hỏi chuyện Doan. Nhưng cô đã bình tĩnh bỏ đi. Cô cố tỏ ra mình cũng chả vội gì. Còn đi là lúc phải đi. Chứ bỏ đi cũng không phải vì sự có mặt của hắn. Cùng lúc đó Doan nhận ra ít nhất năm năm nay, chưa một lần cô nhìn thẳng vào mặt Nam.

*

         Bỗng có một cái tin làm xôn xao cả làng: thằng Nam sắp được đưa đi nước ngoài học một cái nghề gì đó sang trọng lắm. Dự tuyển thi rất đông. Mấy chục thanh niên của trường, toàn đứa học giỏi, đủ sức khỏe, được đưa lên chiếc ô-tô quân sự bịt bạt kín mít về thành phố. Nhưng cả huyện đủ tiêu chuẩn chỉ có hai người. Nam là một trong hai con số độc đắc đó. Con vua thì lại làm vua ấy mà! Không thiếu gì người tặc lưỡi nói như vậy. Họ đâu có biết khi khám sức khỏe bác sĩ đâu có cần biết cậu Nam là con cái nhà ai. Và chính Nam cũng không rõ người ta tuyển mình đi đâu. Hồi hộp lắm. Không khí trang nghiêm và bí ẩn đầy vẻ quân sự. Duy nhất có một điều anh được báo trước là cuộc đi này sẽ rất xa và lâu ngày.

         Bâng khuâng và sung sướng. Nam ngẩn ngơ trong không khí vui, buồn, tiếc, thương của kẻ sắp sửa đi xa. Anh chợt thấy yêu thương tất cả. Từ con đường lồi lõm đá của xóm giữa, đến cây gạo hiện lên giữa trời như một vầng lửa. Ngay lúc đó anh thấy anh quá yêu đất này. Trong hình ảnh chung của quê hương đã có một nét rất riêng in đậm trong anh. Cô gái ấy mặt trái xoan, da trắng, tóc dài. Mỗi lúc Doan đi, bộ ngực trẻ trung rung rinh nhè nhẹ. Nam tìm gặp Doan, cô tránh mặt. Sự thờ ơ của cô càng khiến Nam lồng lên.

         Khoảng một tuần nữa lên đường. Nam ráo riết tìm cách gặp Doan. Đến cuộc họp chi đoàn, thì Doan vắng mặt. Cô cố ý bỏ họp vì hôm đó chi đoàn liên hoan tiễn Nam đi. Cuối cùng Nam xông thẳng vào nhà. Doan đi làm đồng chưa về. Kiên trì chờ hai tiếng đồng hồ, đùa với con chó con, nhưng chiều tối vẫn chẳng thấy cô. Thì ra đến ngõ, Doan biết có Nam đến chơi, đã vứt dụng cụ vào vườn sang thẳng nhà cô bạn học để trốn. Tối mịt, Doan về, ông Tộ ngạc nhiên nhìn con gái. Doan cũng có cảm giác như hôm nay bố mình là lạ. Ông bảo Nam đến chờ rất lâu, Anh ta có chuyện gì đó muốn gặp. Qua giọng và mắt nhìn của bố. Doan nhận ra hàm ý trách móc cô về muộn. Cô còn nhận ra thiện cảm của bố về anh chàng ấy. Mặc kệ! Doan nghĩ khi liếc thấy một nắm tàn thuốc dưới chân góc cột nhà. Bỗng có tiếng sáo ở đâu đó thật buồn.

         Nam ra sân đình để gặp Doan, nhác thấy anh cô đã lỉnh ra ngoài. Hôm sau anh chặn cô giữa con đường cái đi học về. Do quá bất ngờ, vừa choàng mắt nhận ra anh ta, Doan đã phanh xe lại. Đi ngược trở lại thì vô lý quá. Cô liếc thấy bờ ruộng cũng rộng, có thể dắt xe được, cô ào xuống đó. cần phải cho anh ta biết sự quyết tâm của mình. Nam bàng hoàng trước thái độ quá lạ lùng của Doan. Nếu không muốn, đường còn rộng sao Doan không né sang phải mà đi. Nam vội chạy theo giữ xe đạp lại. Cánh tay rất khỏe của anh nắm chặt gác ba-ga. Hai người vừa ghì, vừa giằng rất quyết liệt. Cuối cùng Doan phải buông tay ra. Cô liếc nhìn Nam. Một cái nhìn thật nhanh. Nó mạnh như một tia chớp. Trong cái nhìn có bực bội, giận hờn, trách móc. Cô bật khóc hu hu. Quyết liệt hơn, để cả quần dài, Doan lội ào xuống ruộng để đi thẳng lên đường cái. Doan bỏ Nam lại lúng túng bên chiếc xe đạp. Bị phản ứng mạnh quá, Nam hẫng hụt hồi lâu, rồi đành tự mình mang xe đạp của Doan về nhà.

         Đúng cái lúc Nam tưởng đã bất lực thì Doan như bức tường thành bị rạn vỡ. Cô hoang mang lắm. Mẹ cô thường lẩm bẩm: Mày con gái mà mặt buồn tanh. Bà còn nói với ông ngoại: Con này dễ là đứa khổ vì con đường tình duyên lắm. Vì thế, cô rất sợ. Một điều gì đó sẽ xảy ra? Một cái gì đó đang chờ đợi cô. Có phải sốphận đang chìa Nam trước mặt cô. Và như bữa ăn của số phận vậy. Khi cô đồng ý ngồi xuống bữa ăn đó, cùng là lúc người ta sẽ bê mâm cất đi. Cô luôn luôn nghĩ: Nam sinh ra không phải để cho cô. Anh tương xứng với cô gái nào đó đẹp hơn, sang hơn mình. Vài ngày nữa anh sẽ đi. Một tương lai cao rộng đang chờ anh. Và lúc đó làng quê nhỏ bé này còn có nghĩa lý gì đâu?

         Chiều hôm đó, Doan không đi đâu. Cô chờ ở nhà vì cứ nghĩ Nam sẽ đến như anh từng chặn đường, từng xông vào nhà để tìm. Nhưng cô nhầm. Nam cho rằng cô ghét mình thật nên đã quyết định không tìm kiếm nữa. Ba ngày, khoảng thời gian còn lại của Nam, là ba ngày cực hình của Doan. Nằm sấp trên giường mà tâm trí của Doan để hết ngoài đường. Một tàu cau rung, tiếng xe đạp lăn bánh, đứa trẻ con chạy ở đường cái đều lọt vào tim cô. Nhiều tiếng động làm cô giật mình thảng thốt. Nhưng ngõ nhà vẫn trống vắng. Nam không đến nữa.

         Thế là hết! Hôm sau nữa, xe quân sự chạy đến đầu làng để đón Nam đi. Ô-tô vừa đến cả làng đã biết. Trẻ con vừa chạy ra đó vừa la hét. Ngọn gió hôm ấy cũng lật ngang nửa tàu lá. Doan không dám ra đường. Người ta có cần gì mình nữa mà ra. Song cô đứng ở mép sân. Mặt cô buồn rười rượi. Nhưng vì thế, cô càng có vẻ đẹp thanh mảnh, xa vắng. Cô đang dồn tâm trí để lắng nghe các loại tiếng động thì bất ngờ vang lên tiếng bước chân như có vật nặng ném xuống đất. Nam! Cô tái mặt nhìn anh. Tôi đến chào bác Tộ. Nam buồn buồn nói nhỏ. Bỗng nhiên nước mắt ứa ròng ròng trên gò má Doan. Tim Nam chợt đập loạn xạ. Nó mách bảo cho Nam thật đúng lúc. Anh tiến về phía Doan. Anh vừa cầm tay Doan lên, cô đã gục đầu vào ngực Nam khóc nức nở. Em sẽ chờ đợi anh. Hình như trong thổn thức, Doan đã nói như vậy. Nam hôn lên má, lên mặt, lên mắt Doan. Nụ hôn đầy nước mắt. Chỉ có ngọn gió ngang ngửa, kiểu gió sau bão đang lật từng tàu lá, ngọn cây chứng kiến hình ảnh họ yêu nhau.

*

         Mấy tuần sau, Nam đã đặt chân lên miền đất xa xôi. Đất nước ấy tuy sang trọng nhưng nhà cửa, phố xá, rừng cây, cảnh vật, cho đến con người thật khác ở quê hương đất nước mình. Thành thử Nam càng nhớ làng nhỏ ven sông Hồng của mình. Cả Doan nữa. Anh càng thấy rõ hơn Doan đẹp giản dị, thực chất, gần gũi và cũng sang không kém gì các cô gái xứ người. Tuần đầu, hầu như ngày nào anh cũng viết thư. Ngày dăm mười dòng kiểu nhật ký. Cuối tuần tờ pơ-lua rộng kín đặc chữ là lúc anh gửi đi. Càng xa, tình yêu của anh với Doan càng được củng cố. Doan sớm gửi cho anh một tấm ảnh lớn. Nam lồng nó vào khung kính đặt nơi đầu giường ngủ. Anh còn phát hiện ra ở xứ này có một loài cỏ không có tên, hoa trắng và nhỏ như hạt đậu. Giống hoa này có nhiều ở sau làng anh. Ngày nào anh cũng cắm nó vào lọ. Thành thử xa hàng vạn cây số, căn phòng của anh vẫn gợi nhớ tới những hình ảnh quê nhà.

         Đó là những ngày Nam được gửi vào trường đại học quân sự của nước bạn. Tại đây, sau phần kiến thức cơ bản, anh sẽ được theo học chuyên ngành ra đa. Học viên người châu Á cũng đông. Anh chỉ chơi thân với vài học viên người Việt Nam. Những ngày nghỉ, cả bọn rủ nhau về các vùng lao động thêm kiếm tiền. Nam đã mua được vài món quà ưa thích gửi cho Doan.

         Một năm sau ngày Nam ra đi, Doan vào học tại trường sư phạm. Cô hạnh phúc trong tình yêu với Nam. Còn Nam là hình ảnh lớn để Doan không còn thấy một chàng trai nào khác. Nhiều người đến thăm cô. Không ít kẻ tán tỉnh, tặng quà. Nhưng tất cả đám đông có lúc ồn ào ấy thật mờ nhạt đối vối Doan. Cô đã bị mang tiếng là cô gái kiêu kỳ. Mặc kệ, Doan chấp nhận. Và họ nói là đúng. Chưa ai bằng Nam của Doan. Có một ngày thật đẹp sẽ đến. Một tương lai rực rỡ đang chờ đợi. Không tuần nào Nam không có thư. Và trong một lá thư, mọi sinh hoạt, học tập và cả niềm suy nghĩ, Nam đều kể lại cho Doan biết từng ngày một. Vì thế suốt ngày Doan im lặng sống bên Nam. Họ như bắt được tần số nghĩ của nhau. Và như họ vẫn thấy nhau đi lại, học tập, sinh hoạt, nghĩ ngợi. Đã có lần thật kỳ diệu. Rõ ràng Doan thấy Nam đang chuẩn bị đi xem hát với hai anh bạn học viên. Cô vội vàng dậy ghi ngày giờ đó vào sổ tay. Và lạ chưa, tuần sau, Nam đánh thư về kể chuyện buổi tối đi xem phim ấy như thế nào. Ngày giờ trùng với ngày giờ mà Doan cảm giác được. Kể từ lúc đó Doan thích thú chơi trò hình dung và tự đoán. Trò chơi của cô được ghi vào nhật ký và đều được chép lại trong thư từ cho Nam. Cả hai đều kinh ngạc vì hầu hết các dự đoán của họ đều gần đúng.

         Ngày đó, chiến tranh như đám cháy lớn đang lan từ miền Nam ra phía Bắc. Đối với Doan, chiến tranh là tiếng nổ thật to. Chính mắt cô trông rõ chiếc sà lan nép bên dòng sông Hồng bị hai quả rốc két phá tung. Sau tiếng nổ hình như được bắn từ rất xa, một lúc mới nghe phản lực gào lên rung chuyển. Trẻ con phải đội mũ rơm đến lớp. Trai tráng trong làng lần lượt ra đi. Nhiều người trong sốhọ đã không trở lại.

         Doan vừa làm cô giáo được vài tháng thì có tin Nam sẽ được về sớm. Lứa đi học của các anh sẽ trở về trước thời hạn. Anh mập mờ nói rằng trong nước yêu cầu như vậy. Quả thực ngày ấy chúng ta đang rất thiếu các sĩ quan giỏi về ra đa, con mắt nhìn lên bầu trời. Thiếu con mắt ấy chắc chắn cuộc chiến đấu vối không lực Mỹ sẽ không có hiệu quả.

         Sau ít năm ở nước bạn, Nam đã có ngoại hình thay đổi đáng kể, anh cao lớn hơn, đầy đặn hơn. Phong độ của anh rất xứng đáng là một sĩ quan trẻ. Chuẩn bị đến ngày về. Nam bồn chồn không yên. Anh nghĩ đến phút giây hạnh phúc nhất: lúc đầu tiên sẽ gặp lại Doan. Cô gái xinh đẹp của anh. Cô gái đã gắn với anh bằng bao kỷ niệm quê nhà. Cô đã mạnh hơn và thắng tất cả những người con gái rất có thiện cảm với anh bao năm ở xa.

         Doan cũng vậy. Tiềm thức xui cô bước vào cuộc chuẩn bị lặng lẽ. Cô may lại quần áo, mua thêm guốc dép. Và cái ngày cô chờ đợi đã đến. Hôm ấy đang lên lớp, tự nhiên cô thấy hai má nóng bừng. Viết xong bài toán lên bảng đen ngoảnh ra sân trường, cô đã thấy một sĩ quan cao lớn đi vào. Suýt cô không nhận ra anh. Anh đổi thay nhiều quá. Anh có vẻ đẹp giống như người nước ngoài. Mặt cô chợt tái đi. Viên phấn trong tay rơi xuống đất. Sau đó, hai má Doan tự nhiên chín đỏ. Quên cả xin phép học sinh, cô chạy ra đón anh. Cả hai đều ấp úng không nói thành lời. Khi đưa Nam về phòng, họ đổ vào nhau như quả chín tự nhiên rụng xuống rơi vào tay người làm vườn.

         Đêm hôm đó, trăng thật sáng, Nam và Doan đi bộ ra bờ đê. Sát bên nhau mà họ vẫn thấy chưa đủ. Hình như trong mỗi người đang yêu đều có một đứa trẻ. Họ hôn nhau. Họ nô đùa. Cho anh đụng vào cái này! Nam vừa nói vừa chỉ vào ngực Doan. Mắt cô tinh nghịch, long lanh. Cô không nói là đồng ý. Nhưng khi Nam từ từ cởi cúc áo ngực, cô không phản đối. Mắt Nam chợt sáng bừng lên. Bộ ngực rung rinh sau làn áo mỏng lộ ra sáng lóa. Nam đặt cả gương mặt của mình vào đó. Tất nhiên sức sống mạnh mẽ và tràn trề của đôi trai gái đã không ghìm lại được. Nam ép Doan đẩy sự việc tới cùng. Doãn vùng vẫy chống lại. Nhưng khi Nam nhụt chí, lại là lúc Doan hoàn toàn như dòng lũ dâng lên sùng sục. Cô nằm giữa bãi cỏ. Trong ánh trăng lạnh lẽo, mắt Doan hơi khép hờ. Nam ập đến, không đừng được. Họ đã dâng hiến cho nhau. Mãn nguyện. Trong ít phút, đôi trai gái câm lặng vì sự no đủ. Sau đó, cả hai bàn về lễ cưới.

         Vào cuối năm đó, địch đánh rất mạnh. Không ngày nào không có vài tốp máy bay lăn xả xuống Long Biên, Yên Viên, Hà Nội. Nam được biên chế ngay về trạm ra-đa 601. Công việc giữ chặt anh ở đấy. Có nhiều cuộc hẹn anh phải bỏ dở. Liên tục báo động. Có hôm sau giờ giảng bài, Doan phải vào trận địa thăm Nam. Đến nơi, cô mới biết Nam bận thật sự. Thế mà có lúc lỗi hẹn, cô đã thầm trách anh. Cô muốn đến chỗ anh. Lúc anh tiễn qua cụm chuối tiêu của trận địa Doan chủ động dừng lại để Nam hôn.

         Hai tháng nữa họ sẽ cưới. Nhưng ở trung đoàn bỗng xảy ra sự cố. Không biết kẻ địch dùng chiến thuật gì mà những tốp phản lực xuất hiện trên bầu trời Hà Nội, ra-đa của ta không bắt được. Sĩ quan điều khiển tên lửa Nguyễn Minh Tân gọi điện sang phân đội ra-đa mắng rất tục. Cũng may người đàn ông ấy ai cũng biết. Mọi người đều kính trọng anh. Họ tha thứ cho sự quá ngôn của anh. Nhưng Nam thì không. Anh đi tắt cánh đồng sang gặp Tân. Vừa nhác thấy con người nổi tiếng điều khiển tên lửa tầm thấp này, Nam đã bị diện mạo rất đẹp của anh ta khuất phục. Đáng mặt đàn ông lắm. Sau khi bắt tay, Tân chẳng chào hỏi gì cả nói luôn. Anh yêu cầu Nam phải bắt đúng và sớm tất cả các trường hợp máy bay xâm nhập. Bất kể loại máy bay gì, tọa độ, cự ly, phương vị nào.

         Nam tự ái. Nhưng anh nghĩ, ra-đa không tóm đúng mục tiêu, dứt khoát sẽ chưa nói chuyện với con người kiêu hùng này được. Về lại trận địa, anh vội vã lấy xe tạt qua nhà dặn Doan sắp tới anh sẽ bận. Doan không kịp nấu cơm ăn, Nam đã phải đi. Họ ôm chầm lấy nhau ở đầu ngõ. Hai cậu học trò vạch lá chỉ vào họ toét miệng cười.

         Từ chỉ huy phân đội, Nam trực tiếp xuống làm trắc thủ. Anh quyết không để cho bọn cao xạ và tên lửa mắng mỏ. Chiều hôm đó, báo động. Anh chăm chú cho lưới pa-ra-bôn quét sóng ở phương vị 185. Cùng lúc đó, anh ghìm nút chống nhiễu. Mục tiêu hiện lên. Hai đốm sáng hình ê-líp lừ lừ rõ dần. Được mục tiêu, cung cấp tình báo cho pháo điểm xạ bốn loạt. Ba phút sau đó Nam được báo lại: hai chiếc AD6, mục tiêu được bắn theo thông số của Nam đã trút bom bình tĩnh xuống Yên Viên bay ra vô sự. Không những thế, tên phi công còn cố ý bay vòng giễu cợt ra-đa và các trận địa phòng không của ta.

         Những ngày đó nhiều lúc Nam bị hút hoàn toàn vào công việc. Anh quên cả Doan. Quên cả việc chuẩn bị cho ngày cưới sắp đến. Anh cay cú với những ma thuật của bọn lái Mỹ. Và anh vẫn chưa quên vẻ mặt trịch thượng của anh chàng sĩ quan điều khiển. Vốn là người nhạy cảm, anh đã hiện lên một dự đoán: Từ xa, máy bay Mỹ thường bay thấp. Cùng lúc lẩn mình trong các lòng núi, đám mây, chúng mới lấy độ cao để cắt bom hoặc bắn tên lửa. Anh cần có thời gian để kiểm nghiệm.

         Một giờ chiều hôm đó toàn trận địa lại báo động. Hai chiếc AD6 bay vào từ phía cửa sông Hồng. Nam chăm chú điều khiển ra-đa quay pa-ra-bôn về hướng có địch. Mục tiêu một hiện lên rồi mất hút. Giây phút đó, mục tiêu hai cũng mờ mờ lộ ra. Và sau hai ba giây, cả hai mục tiêu đều bị xóa trên màn hiện hình. Ở phương vị đó chỉ còn lại một dải nhiễu tiêu cực. Nam “cú” lắm. Anh toát mồ hôi. Thất vọng như vừa bị đấm vào mặt. Anh quát to: sục sạo phương vị 150 – 180 cự ly 20.

         Pa-ra-bôn vội vã điều chỉnh về hướng có địch. Dây quét trên màn hình rà sát rất kỹ tầm thấp, các hõm núi, lòng sông. Chợt vệt sáng nhỏ như hạt gạo màu sữa hiện ra. Nam trực tiếp ra lệnh cho trắc thủ quét sóng kiểm tra và liên tục báo cự ly về sở chỉ huy. Không thể nào trật được. Lần này sau ba loạt điểm xạ cả hai chiếc AD6 đều bị phơi bụng.

         Nam tự hào lắm. Anh thấy mình đàng hoàng hẳn lên. Sự yên ổn và phấn khởi anh vừa tạo ra được đã cho phép anh nghĩ đến Doan. Họ đẹp đôi lắm. Ai cũng bảo vậy. Giờ đây, sau lần đầu tiên “biết nhau” trên bờ đê làng, tình yêu của họ càng trở nên có chiều sâu. Anh đã coi Doan như vợ mình. Sau lúc rảnh rỗi anh lại nhớ đến Doan. Nỗi nhớ có mùi da thịt hẳn hoi.

         Nam bắt đầu được nhắc đến như một sĩ quan ra-đa giỏi. Ngoài kỹ thuật ra, anh còn có độ tinh nhạy không lý giải được. Anh cảm thấy bắt đầu hiểu cách nghĩ của các phi công Mỹ. Chúng thường dùng chống nhiễu xen với kỹ thuật biến hóa tinh xảo. Nếu chiếc máy bay trước đó vài giây dẫn đầu, thì ngay sau đó, khi tụt lại phía sau, lập tức nó nâng hoặc hạ độ cao. Nhiều trắc thủ của ta đã quay góc tà không kịp và để mất mục tiêu. Nam được mời đến nhiều cuộc giao ban để phổ biến kinh nghiệm này.

         Nam được sư đoàn góp phần tham gia chuẩn bị cho ngày cưới. Cứ mỗi lúc có ô-tô về làng, ai cũng thấy rộn rịp. Ông Tộ rất tự hào về chàng rể tương lai. Nam còn có anh bạn công binh rất tinh nghịch. Hôm xe về, anh ta xách xuống gửi tặng Doan nửa bao tải bom bi. Cả nhà thất kinh. Đủ thời gian để mọi người tái mặt, cậu ta mới cầm lấy trái bom bi rỗng ruột, rút ra một bông hồng có sẵn cắm vào đó. Tất cả đều ồ lên, thở phào vui vẻ. Anh chàng Tân sĩ quan điều khiển tên lửa nọ bây giờ là trung đoàn phó. Tuy có vẻ trịch thượng, dáng Từ Hải, nhưng con người đó thật đầm ấm. Tân cũng mê độ nhạy cảm trong sử dụng ra-đa của Nam. Anh đã “mượn” Nam một đêm trong trận đánh cháy hai ép bốn. Sau cái đêm mượn Nam đó, Tân rất quý viên sĩ quan trẻ có phong độ hơi Tây này.

         Nhưng sự đời như là có số phận ấy. Sau buổi tối rất đông người đến nhà ông Tộ ấy, tất cả các trận địa phòng không báo động cấp 3. Cấm không được phép bất kỳ ai rời trận địa một phút. Mỹ mở chiến dịch tấn công B52 hủy diệt Hà Nội. Mười hai ngày đêm bám trên xe phát sóng. Không có lấy một giờ báo yên. Hơn một tuần đầu, do căm thù địch, Nam cùng kíp trực đã không rời trận địa. Rất nhiều lúc cấp bách, lệnh phát sóng ngắn để bắt mục tiêu, các sĩ quan ở lỳ trong xe, bất chấp các nguyên tắc kỹ thuật liên quan đến sức khỏe và số phận con người.

         Nhiều B52 đã rơi trên Hà Nội. Nhưng ngay sau đó, Nam thấy trong cơ thể mình có sự chuyển hóa là lạ. Anh mệt như bị đánh. Và đêm ngủ, anh thấy mình lơ lửng như trôi trong không gian. Đặc biệt từ sâu trong cơ thể anh thoát ra một thứ nước là lạ. Anh không sao kìm giữ được. Là người hiểu biết anh có cảm giác xấu về sức khỏe. Anh hết sức hoang mang. Tuy có gầy rộc đi, vẻ mặt tái mét, môi thâm, Nam vẫn giữ được phong độ đàng hoàng, thung dung. Hàng ngày, anh vẫn trực chỉ huy, giao ban đánh địch. Có những kíp trắc thủ lão luyệt, quét sóng, vẫn bị các phi công Mỹ lẩn tránh được. Nhưng đích thân Nam rà sát, quét sóng, moi móc các phương vị, góc hẹp, các hõm núi, chỉ một lát đã bật ra tín hiệu thực.

         Nam thưa về với Doan hơn. Anh biết mình đã bị một căn bệnh chỉ những ai làm ra-đa mới biết. Anh trở thành con người âm thầm khó hiểu. Những lần tới trận địa sau đó, Doan nhận ra sự uể oải, lạnh nhạt của Nam. Cô gặng hỏi, Nam chỉ cười hiền lành, bảo không có gì. Doan không tin. Cô hỏi dò mấy cán bộ lâu nay đã quen biết. Không ai thấy có thư lạ, hay một cô gái nào đó đến thăm Nam.

         Cho đến một hôm, Doan có tin vui. Cô được sở giáo dục khen thưởng. Vừa đến trận địa, cô đã sà vào Nam. Cô tìm kiếm cảm giác ấm cúng được vuốt ve của anh. Cô áp người vào anh, cô loay hoay như con mèo tìm hơi ấm trong lòng con người. Cô giật mình nhận ra bên cạnh cô, Nam cứng như gỗ đá. Anh thế nào ấy, Doan xoay hẳn người, ngửa mặt nhìn vào mắt Nam kêu lên. Anh không lảng tránh. Mắt anh thật sâu, sáng lên như đang cười, nhưng xa vời vợi. Cô không cắt nghĩa được sự thật gì ẩn chứa trong đó. Cô chỉ thấy thiếu, thấy khác, thấy mình không còn nhận được từ thân thể cường tráng, tràn đầy sinh lực kia một bàn tay, sức nóng của đàn ông. Cái sức nóng truyền cảm mà thường ra nó đầy ắp, rạo rực trong Nam. Cô chết lặng đi và bật khóc hu hu. Nam xoay người dỗ dành Doan, vuốt ve, động viên cô. Anh kể tiếu lâm để cô cười. Cố gắng bao nhiêu, anh càng nhận rõ sự lạnh vắng đang vây tỏa. Có khối đen vô hình đang trôi lù lù chiếm lĩnh thân thể anh.

         Nam rất biết sự chuyển biến ấy. Không còn cách nào khác, anh lờ dần ngày cưới. Doan đau đớn, bực bội, hờn ghen. Có buổi gặp một mình Nam, cô còn làm ầm ĩ lên. Cô vật vã đau đớn nhận kết cục xấu từ ngày chưa yêu, cô đã linh cảm thấy. Biết mà! Doan nghĩ. Ai cũng bảo sao mắt mày buồn thế! Rồi một ngày, Doan nhận được thư của Nam. Anh đến tận nơi, đàng hoàng trao lá thư ngắn cho Doan rồi ra về. Tuy đoán được trước sự việc, Doan vẫn hốt hoảng. Mở thư ra xem Nam viết không dài. Anh chỉ thông báo mình nhỡ có chuyện với nữ dân quân. Nếu không có hậu quả thì chắc chắn còn có thể sửa chữa được. Doan vứt lá thư như người ta vứt cái cốc vào mặt Nam. Đến để chia tay, vĩnh biệt, nên Nam có tặng Doan bọc quà kỷ niệm. Doan điên lên, vứt tung dây buộc, vải này! Cô vừa nức nở vừa ném ra sân. Son phấn này! Cô lại vứt loảng xoảng xuống đất. Chưa hết căm tức, cô còn lấy chân dẫm nát thứ đồ đạc vô tội đó. Cực đoan hơn, Doan còn lội phăng đến mấy trận địa phối hợp của dân quân. Trong tay Doan có sẵn lọ nước không màu. Chỉ cần biết mặt con đĩ ấy, Doan sẽ cho nó biết tay! Con người xinh đẹp, đoan trang và chừng mực ngần ấy chợt nổi đóa lên. Các nữ dân quân đang trực chiến thấy Doan đều rùng mình lắc đầu.

         Có lẽ hai năm sau, Doan mới dịu đi căm hờn sự phản bội của Nam. Chị đã lấy chồng. Chồng chị là một kỹ sư hơn Nam hai tuổi. Anh đàng hoàng, đứng đắn và có địa vị khoa học.

         Khi con trai của họ một tuổi thì nhà có khách. Nam đến chơi.

         Thoạt đầu Doan không tiếp. Chị còn đề nghị Nam ra về. Nam hơi rụt rè và buồn. Nhưng cái phút căng thẳng ban đầu rồi cũng qua đi. Dù sao, họ cũng là người cùng làng. Doan miễn cưỡng tiếp Nam và trông thằng con trai đang nghịch. “Anh muốn nói điều cuối cùng với Doan”. Nam mở đầu như vậy. Doan ngạc nhiên tròn xoe mắt. Doan cũng được biết cho tới giờ, Nam vẫn chưa cùng ai. Nam kể hết mọi sự cố xảy ra. Càng nghe, mặt Doan càng tái đi. Chị gật đầu thừa nhận điều Nam nói. Rồi bất ngờ, chị gục mặt vào lòng Nam khóc nức nở.

         Hôm nay, sau hai mươi năm, Nam vẫn không lấy vợ. Ai cũng nghĩ anh lạ lùng. Vì lý do sức khỏe nên Nam đã nghỉ hưu. Nếu bạn muốn tò mò biết có một thời như vậy, một người như vậy, xin mời! Anh là người có thật chứ không phải là một hình ảnh tạo dựng. Cạnh một quầy đại lý xổ số Hà Nội, Nam vẫn giản dị và cởi mở với khách. Anh vẫn sống bình yên, và nếu làm được tiền, lại mua quà gửi cho những đứa con của Doan. Trong hai đứa bé kháu khỉnh, thông minh, cô bé gái mẹ nó đặt tên là Thùy Nam.

         1992Trong cái đám trẻ làng tôi có thằng Nam. Nó lớn hơn bọn cùng tuổi một cái đầu. Ai cũng nghĩ bố nó làm to, lương cao, ăn uống sướng, nên nó phổng phao hơn bọn cùng lứa. Vào những buổi trưa, người ta vẫn nghe từ trong bếp nhà nó vẳng ra tiếng “xèo” cực kỳ hấp dẫn. Rồi sau đó, không gian thơm phức mùi hành chiên, mùi thịt rán. Nghĩa là những sự kiện bình thường ở nhà nó thì làng này chỉ có ở ngày quốc khánh, ngày ăn gạo mới (tục lệ mừng mùa gặt tháng mười) hay ngày giỗ, tết. Đó là cái lý để da dẻ nó lúc nào cũng đỏ đắn, sáng bóng.

         Nam lớn như vậy, học thì nhanh, thông minh, nhưng láo nhất hạng. Cô giáo rất nể bố nó. Mọi người vẫn thấy mỗi lần ông về quê, xe đỗ ở cổng trường, cô giáo bỏ cả giờ đang lên lớp nói chuyện với ông. Không rõ ông nói gì mà đám học sinh cứ trố mắt nhìn cô khoanh hai tay trước ngực vâng ạ, vâng ạ. Cô tiễn ông ra tận xe mới quay về bục giảng. Chứ bố nó mà đi cày như mẹ nó thì coi chừng! Cái vụ thằng Nam vẽ cô giáo cởi truồng, hai cái vú to như cái bình tích thì có mà bị đuổi học sớm.

         Sự việc trên làm cô rất bực. Cô gọi nó lên giam nửa ngày. Nhưng thâm tâm, cô không ghét nó. Cô biết nó rất thông minh. Chỉ tội bướng và nghịch. Tuy vậy cô cũng nhận ra dấu hiệu một người đàn ông tràn trề sức sống trong nó. Nghịch thì nhất mực, nhưng hình như nó hồn nhiên và ngây ngô. Nam không láu lỉnh và khôn vặt như vài đứa ở lớp. Cũng còn có dư luận rằng cô giáo cảm tình riêng với Nam. Nghe tin cô đang yêu em út của bố Nam thì phải. Cái lão ấy đẹp trai lắm.

         Đấy là ở trường. Còn ở nhà, Nam gây không ít sự rắc rối. Trong quãng đời ấy, Nam thù nhất lão Tộ. Lão Tộ là bộ đội Điện Biên về làng, giữ chức bảo nông chuyên nghiệp. Lão Tộ giống như vị thần sét trong trí nhớ của bọn trẻ. Đã đen, đi đâu cũng lì lì cầm con dao quắm dài. Thành thử đứa nào cắt cỏ trộm trong ruộng màu, trông thấy lão là đái ra quần. Người lớn thì nhận xét lão chừng mực, đứng đắn. Còn trẻ nhỏ thì trông thấy lão đã sợ. Vì đứa nào ít nhất cũng hơn một lần để trâu ăn lúa, hay vặt trộm cam của hợp tác. Hôm đi chơi ngoài bờ sông về, lũ trẻ rủ nhau hái trộm cam xanh của hợp tác. Hoan hô! Bọn trẻ reo ầm lên về sáng kiến đó. Hơn nữa ăn trộm cam thì dễ lắm. Có mỗi ông già đi cà nhắc trông vườn. Còn bờ rào ư? Nhảy phắt một cái là qua. Nam dường như là chỉ huy trưởng của cuộc lấy cắp ấy. Cậu phân cho đứa đánh lạc hướng ông già, đứa chiến đấu với con mực lực lưõng có thể xông ra. Còn Nam, dẫn ba thằng xung kích vào vườn. Đang tả xung hữu đột thì có tiếng chó sủa, rồi tiếng hô hoán ầm ĩ. Mọi người đổ ra. Vừa vọt khỏi bụi gai ra đường, Nam đã đứng sững lại. Trước mặt cậu đã là lão Tộ mặt lạnh như đá, mắt long lên giận dữ. Tất nhiên là Nam cãi phăng. Tôi đuổi một con chuột trong vườn. Nam nói vậy. Nhưng lão Tộ gian manh không kém. Lão cầm lấy tay Nam lên ngửi! Đích thị mùi cam. Lão tóm luôn Nam đưa lên trụ sở. Sợ đếch gì! Thì đi. Nhưng mà ai kia? Nam dừng mắt rất lâu trên khuôn mặt con Doan. A! Ra mày! Chắc chắn chỉ có mày! Nam rít lên không thành lời. Mày mách bố mày chứ gì? Rồi mày biết tay tao. Thầm nghĩ như vậy, rồi Nam cùng mấy đứa theo lão Tộ về trụ sở. Đứng sau bố, Doan run cầm cập. Cô bé sợ nói to, quát to, và sợ ăn cắp lắm. Nó giương đôi mắt tròn, rất sáng nhìn đám con trai lớn tuổi hơn bị bố mình bắt. Và đây là sự kiện đầu tiên mở đầu cho bao nhiêu chuyện rắc rối sau này.

         Tất nhiên là Nam cùng lũ bạn được thả. Ngay chiều hôm đó, kế hoạch trả thù được thực hiện. Năm thằng rúc trong bụi găng chờ con Doan đi học về. May quá, hôm nay nó là đứa lững thững đi sau cùng. Nam móc ra từ trong túi một con chuột đã được bóp chết. Chờ đúng lúc Doan đi qua năm đứa mới lững thững bước ra. Đứng lại! Nam nói bình tĩnh. Giống như trong bộ phim nào đó; quả là Nam có bị ảnh hưởng điều ấy. Trước tiên hai đứa giữ lấy tay Doan. Con bé đã ngơ ngác nhìn quanh. Mặt nó tái đi. Và khi Nam bình tĩnh khoác con chuột to, mềm nhũn kéo lên cổ Doan thì cô bé thét lên, không còn hồn vía nào nữa, vứt cặp bỏ chạy. Nó vấp ngã túi bụi. Chừa thói mách lẻo nhé! Cả năm thằng cùng vỗ tay cười rầm rĩ, trong lúc Doan vừa chạy vừa kinh sợ nhìn lại. Bõ hờn nhé. Tưởng thế là xong, ai ngờ tối hôm đó, lão Tộ xuất hiện. Không phải một mình mà cả Doan. Con bé mặt mày thâm tím. Nhút nhát và sợ hãi nép bên ông Tộ, Doan giống con gà nhỏ vừa bị sa xuống hố nhặt lên, Nam trố mắt ngạc nhiên! Có ai đánh Doan đâu nhỉ? Cu cậu chợt thấy ân hận, Nam hoang mang nhìn trộm vào mặt Doan. Còn ông Tộ, tưởng sẽ hùng hổ lôi Nam ra cho một trận, thì lão lại chỉ kể lại cho mẹ Nam nghe. Vốn là người đàn bà nóng nảy nhưng thẳng tính, ông Tộ vừa ra khỏi ngõ, mẹ Nam đã trói Nam vào gốc cau, Nam đưa tay cho mẹ không hề giẫy giụa. Mẹ Nam quấn từng vòng dây vải màn. Rồi bà rút chiếc roi tre xuống vụt túi bụi. Này! Mất dạy. Này hại cơm tao. Nam im lặng chịu đòn, không kêu ca, phản đối. Những roi sau, bà mẹ đánh càng đau hơn. Giá như Nam kêu van, xin lỗi, chắc trận đòn sẽ sớm chấm dứt. Đằng này nó thi gan. Bà mẹ càng đánh càng điên lên như bị đứa con thách thức. Sự thương cảm bắt đầu có được về Doan dần dần mất hết trong Nam. Một lần nữa cậu lại tức tối khẳng định: Vì con nhãi nhép mà ông bị đòn.

         Trận phục thù lần sau tai quái hơn. Nhà lão Tộ có vạn cây mía đỏ trồng ven sông. Gió heo may mía bắt đầu ngọt dần. Và vì thế, cũng nhiều lá mía khô trắng xóa. Vườn mía ấy là nguồn sống chính của nhà lão Tộ. Nam bàn với lũ bạn phết bùn lên lưng trâu buộc rạ rồi đốt cháy đùng đùng. Khi lửa cháy, trâu sẽ chạy lồng lên vào bãi mía. Quả nhiên, đám lửa trên lưng trâu vừa bốc ngùn ngụt, con trâu mộng đã lấc láo bỏ chạy. Càng to lửa, nó càng lồng lên. Nó lao vào bãi mía, dụi lưng dập lửa. Trong nháy mắt, mấy sào mía bốc cháy như bó đuốc. Trò chơi dại ấy của lũ trẻ do Nam chủ mưu vô tình đẩy nhà ông Tộ đến bờ vực thẳm. Khi ông Tộ hớt hải từ nhà chạy ra thì ruộng mía đã cháy đen thui, khói bốc nghi ngút mùi mật. Trời hại ta! Chiến sĩ Điện Biên như ông Tộ mà bật khóc hu hu. Ông bất lực, bứt đầu, bứt tai khóc thành tiếng.

         Trong năm đó người ta thấy Doan đi học phải mặc áo rách. Và hình ảnh này, suốt đời Nam không sao xóa được. Hôm nhà trường tổ chức lao động, mọi người giở cơm ra ăn. Mo cơm của Doan toàn thấy khoai là khoai. Có lẽ cơm chỉ đủ để kết dính những lát khoai lại với nhau. Từng chồng khoai lát trong bữa ăn của Doan thật giống những xếp tiền bằng đồng đã rỉ chồng lại. Dù chỉ trong tích tắc liếc mắt trông thấy nhưng Nam không bao giờ quên được Doan nghẹn lại mỗi lúc nuốt miếng cơm đó vào bụng. Mẹ Nam đền bù cho ông Tộ hai tạ thóc. Nhưng thấm vào đâu. Trong năm đó, gia đình ông sinh hoạt sa sút trông thấy. Tuy còn nhỏ, nhưng mặc cảm tội lỗi không buông tha Nam. Cuối tháng đó, nhân dịp bố về, cậu đã ăn cắp tiền của bố. Một lượng tiền khá lớn. Hình như là hai tháng lương của ông. Nam gói ghém thật cẩn thận rồi đang đêm đến bờ rào, ném số tiền rơi sát giếng nước. Hơn một ngày theo dõi, Nam vẫn còn thấy gói tiền nằm nghiêng bên bờ gạch. Chỉ ngay hôm sau thì không thấy gói tiền nằm đó nữa. Với tư duy ngay thẳng và đơn sơ của Nam, cậu tin rằng gói tiền đó đã được chuyển hóa vào túi tiền nhà ông Tộ. Quan trọng nhất là Doan sẽ có áo mới, sẽ không phải ăn khoai mà cơm chỉ là cái cớ. Từ sâu thẳm trong lòng, cậu thấy yên ổn.

         Đó là dấu chấm hết cho cái tuổi học trò tai quái của Nam. Dạo ấy Nam đã lớn lắm. Cậu trở thành một chàng trai phổng phao, mạnh mẽ. Mẹ Nam cứ nhìn Nam mà thầm hài lòng. Càng lớn, tính Nam càng đằm hơn. Cậu cởi mở, vui tính, biết sống với mọi người. Không ai có thể ngờ cách đó chưa lâu Nam còn là cậu học trò vẽ cô giáo cởi truồng lên bảng đen.

         Với Doan, tự nhiên Nam cứ thấy có khoảng cách vời vợi.Anh cứ bị hình ảnh Doan vướng trong đầu. Nhưng gặp thì không. Và hình như vẫn trông thấy nhau, nhưng mấy năm liền Nam không nhìn được vào mắt Doan. Cô bé cứ thấy anh là lảng đi và anh cũng né tránh vì ngượng. Dạo ấy Doan đã lớn lắm. Cái dáng bé nhỏ khẳng khiu ngày nào bây giờ đã trở nên đầy đặn và mềm mại. Người ta đã thấy khuôn ngực cô rung rinh sau làn áo mỏng. Chỉ cuối năm đó sự phát triển của tuổi dậy thì đã đưa Doan lên hàng cô gái đẹp nhất làng.

         Ở làng tự dưng hình thành mối tương quan. Người ta nghĩ, người ta nhìn nhận, người ta bàn tán. Họ bảo cái Doan với Nam thì đẹp đôi lắm, hợp lý lắm. Lời bình ấy đến tai Nam, anh thấy niềm sung sướng mơ hồ cứ dấy lên. Và tiềm thức đã xui khiến anh mỗi lúc đi học về ngày nào cũng đi vào xóm giữa. Con đường ấy về nhà thật gập ghềnh. Nhiều khi xe đạp nhảy tâng tâng. Nhưng anh vẫn chọn nó để về nhà mình. Cái xóm giữa có gốc cây gạo đỏ hoa, và bầy sáo đen ríu rít kéo về. Hẳn cây gạo có đẹp cũng đóng một vai trò nào đó thôi. Chủ yếu là Doan. Cái ngõ nhà cô sát cạnh. Nam muốn được nhìn thấy Doan. Mặc dù với ông Tộ, Nam vẫn thấy trong lòng ngài ngại. Dần dà, một ngày không bắt gặp Doan một lần, Nam thấy bồn chồn, thiếu vắng.

         Còn Doan, lời bàn của xóm giềng đã đến tai cô. Nhưng thật dửng dưng. Ấn tượng về con chuột mềm nhũn bị khoác vào cổ làm cô không thể nào nhìn mặt hắn được. Trong con mắt cô, Nam vừa tàn ác, phũ phàng, vừa là con nhà giàu, không nên dính dáng đến anh ta. Cô kiêu hãnh với cái nghèo nhưng giản dị đầm ấm của nhà mình. Chẳng cần gì mà thấy người sang, bắt quàng làm họ. Vì thế, câu chuyện vào tai cô lại lọt ra ngoài. Cô thừa biết sự săn sắn mà Nam đang dành cho cô, cũng như việc anh ta đi học về xóm giữa cũng là để giáp mặt mình. Lòng cô tĩnh tại đến mức có gặp Nam, hay anh mỉm cười, cô vẫn lặng lẽ đi qua như không hề gặp ai. Như hôm cách đây chưa lâu, khi Nam đi học về, trùng đúng lúc Doan vừa ra ngõ. Rõ ràng Nam lên tiếng từ rất xa. Nhưng thật tự nhiên, Doan đã kịp ngửa mặt nhìn lên trời, nơi có những cánh tay lực lưỡng vươn ra từ cây gạo cổ thụ đầy hoa đỏ. Mà lạ thay, từng cánh hoa gạo chả đẹp gì. Vậy mà từ xa nhìn tới, cây gạo đỏ rực một góc trời, vẻ đẹp đầy sắc màu, khêu gợi. Anh ta dừng hẳn xe lại, miệng nở nụ cười, định hỏi chuyện Doan. Nhưng cô đã bình tĩnh bỏ đi. Cô cố tỏ ra mình cũng chả vội gì. Còn đi là lúc phải đi. Chứ bỏ đi cũng không phải vì sự có mặt của hắn. Cùng lúc đó Doan nhận ra ít nhất năm năm nay, chưa một lần cô nhìn thẳng vào mặt Nam.

*

         Bỗng có một cái tin làm xôn xao cả làng: thằng Nam sắp được đưa đi nước ngoài học một cái nghề gì đó sang trọng lắm. Dự tuyển thi rất đông. Mấy chục thanh niên của trường, toàn đứa học giỏi, đủ sức khỏe, được đưa lên chiếc ô-tô quân sự bịt bạt kín mít về thành phố. Nhưng cả huyện đủ tiêu chuẩn chỉ có hai người. Nam là một trong hai con số độc đắc đó. Con vua thì lại làm vua ấy mà! Không thiếu gì người tặc lưỡi nói như vậy. Họ đâu có biết khi khám sức khỏe bác sĩ đâu có cần biết cậu Nam là con cái nhà ai. Và chính Nam cũng không rõ người ta tuyển mình đi đâu. Hồi hộp lắm. Không khí trang nghiêm và bí ẩn đầy vẻ quân sự. Duy nhất có một điều anh được báo trước là cuộc đi này sẽ rất xa và lâu ngày.

         Bâng khuâng và sung sướng. Nam ngẩn ngơ trong không khí vui, buồn, tiếc, thương của kẻ sắp sửa đi xa. Anh chợt thấy yêu thương tất cả. Từ con đường lồi lõm đá của xóm giữa, đến cây gạo hiện lên giữa trời như một vầng lửa. Ngay lúc đó anh thấy anh quá yêu đất này. Trong hình ảnh chung của quê hương đã có một nét rất riêng in đậm trong anh. Cô gái ấy mặt trái xoan, da trắng, tóc dài. Mỗi lúc Doan đi, bộ ngực trẻ trung rung rinh nhè nhẹ. Nam tìm gặp Doan, cô tránh mặt. Sự thờ ơ của cô càng khiến Nam lồng lên.

         Khoảng một tuần nữa lên đường. Nam ráo riết tìm cách gặp Doan. Đến cuộc họp chi đoàn, thì Doan vắng mặt. Cô cố ý bỏ họp vì hôm đó chi đoàn liên hoan tiễn Nam đi. Cuối cùng Nam xông thẳng vào nhà. Doan đi làm đồng chưa về. Kiên trì chờ hai tiếng đồng hồ, đùa với con chó con, nhưng chiều tối vẫn chẳng thấy cô. Thì ra đến ngõ, Doan biết có Nam đến chơi, đã vứt dụng cụ vào vườn sang thẳng nhà cô bạn học để trốn. Tối mịt, Doan về, ông Tộ ngạc nhiên nhìn con gái. Doan cũng có cảm giác như hôm nay bố mình là lạ. Ông bảo Nam đến chờ rất lâu, Anh ta có chuyện gì đó muốn gặp. Qua giọng và mắt nhìn của bố. Doan nhận ra hàm ý trách móc cô về muộn. Cô còn nhận ra thiện cảm của bố về anh chàng ấy. Mặc kệ! Doan nghĩ khi liếc thấy một nắm tàn thuốc dưới chân góc cột nhà. Bỗng có tiếng sáo ở đâu đó thật buồn.

         Nam ra sân đình để gặp Doan, nhác thấy anh cô đã lỉnh ra ngoài. Hôm sau anh chặn cô giữa con đường cái đi học về. Do quá bất ngờ, vừa choàng mắt nhận ra anh ta, Doan đã phanh xe lại. Đi ngược trở lại thì vô lý quá. Cô liếc thấy bờ ruộng cũng rộng, có thể dắt xe được, cô ào xuống đó. cần phải cho anh ta biết sự quyết tâm của mình. Nam bàng hoàng trước thái độ quá lạ lùng của Doan. Nếu không muốn, đường còn rộng sao Doan không né sang phải mà đi. Nam vội chạy theo giữ xe đạp lại. Cánh tay rất khỏe của anh nắm chặt gác ba-ga. Hai người vừa ghì, vừa giằng rất quyết liệt. Cuối cùng Doan phải buông tay ra. Cô liếc nhìn Nam. Một cái nhìn thật nhanh. Nó mạnh như một tia chớp. Trong cái nhìn có bực bội, giận hờn, trách móc. Cô bật khóc hu hu. Quyết liệt hơn, để cả quần dài, Doan lội ào xuống ruộng để đi thẳng lên đường cái. Doan bỏ Nam lại lúng túng bên chiếc xe đạp. Bị phản ứng mạnh quá, Nam hẫng hụt hồi lâu, rồi đành tự mình mang xe đạp của Doan về nhà.

         Đúng cái lúc Nam tưởng đã bất lực thì Doan như bức tường thành bị rạn vỡ. Cô hoang mang lắm. Mẹ cô thường lẩm bẩm: Mày con gái mà mặt buồn tanh. Bà còn nói với ông ngoại: Con này dễ là đứa khổ vì con đường tình duyên lắm. Vì thế, cô rất sợ. Một điều gì đó sẽ xảy ra? Một cái gì đó đang chờ đợi cô. Có phải sốphận đang chìa Nam trước mặt cô. Và như bữa ăn của số phận vậy. Khi cô đồng ý ngồi xuống bữa ăn đó, cùng là lúc người ta sẽ bê mâm cất đi. Cô luôn luôn nghĩ: Nam sinh ra không phải để cho cô. Anh tương xứng với cô gái nào đó đẹp hơn, sang hơn mình. Vài ngày nữa anh sẽ đi. Một tương lai cao rộng đang chờ anh. Và lúc đó làng quê nhỏ bé này còn có nghĩa lý gì đâu?

         Chiều hôm đó, Doan không đi đâu. Cô chờ ở nhà vì cứ nghĩ Nam sẽ đến như anh từng chặn đường, từng xông vào nhà để tìm. Nhưng cô nhầm. Nam cho rằng cô ghét mình thật nên đã quyết định không tìm kiếm nữa. Ba ngày, khoảng thời gian còn lại của Nam, là ba ngày cực hình của Doan. Nằm sấp trên giường mà tâm trí của Doan để hết ngoài đường. Một tàu cau rung, tiếng xe đạp lăn bánh, đứa trẻ con chạy ở đường cái đều lọt vào tim cô. Nhiều tiếng động làm cô giật mình thảng thốt. Nhưng ngõ nhà vẫn trống vắng. Nam không đến nữa.

         Thế là hết! Hôm sau nữa, xe quân sự chạy đến đầu làng để đón Nam đi. Ô-tô vừa đến cả làng đã biết. Trẻ con vừa chạy ra đó vừa la hét. Ngọn gió hôm ấy cũng lật ngang nửa tàu lá. Doan không dám ra đường. Người ta có cần gì mình nữa mà ra. Song cô đứng ở mép sân. Mặt cô buồn rười rượi. Nhưng vì thế, cô càng có vẻ đẹp thanh mảnh, xa vắng. Cô đang dồn tâm trí để lắng nghe các loại tiếng động thì bất ngờ vang lên tiếng bước chân như có vật nặng ném xuống đất. Nam! Cô tái mặt nhìn anh. Tôi đến chào bác Tộ. Nam buồn buồn nói nhỏ. Bỗng nhiên nước mắt ứa ròng ròng trên gò má Doan. Tim Nam chợt đập loạn xạ. Nó mách bảo cho Nam thật đúng lúc. Anh tiến về phía Doan. Anh vừa cầm tay Doan lên, cô đã gục đầu vào ngực Nam khóc nức nở. Em sẽ chờ đợi anh. Hình như trong thổn thức, Doan đã nói như vậy. Nam hôn lên má, lên mặt, lên mắt Doan. Nụ hôn đầy nước mắt. Chỉ có ngọn gió ngang ngửa, kiểu gió sau bão đang lật từng tàu lá, ngọn cây chứng kiến hình ảnh họ yêu nhau.

*

         Mấy tuần sau, Nam đã đặt chân lên miền đất xa xôi. Đất nước ấy tuy sang trọng nhưng nhà cửa, phố xá, rừng cây, cảnh vật, cho đến con người thật khác ở quê hương đất nước mình. Thành thử Nam càng nhớ làng nhỏ ven sông Hồng của mình. Cả Doan nữa. Anh càng thấy rõ hơn Doan đẹp giản dị, thực chất, gần gũi và cũng sang không kém gì các cô gái xứ người. Tuần đầu, hầu như ngày nào anh cũng viết thư. Ngày dăm mười dòng kiểu nhật ký. Cuối tuần tờ pơ-lua rộng kín đặc chữ là lúc anh gửi đi. Càng xa, tình yêu của anh với Doan càng được củng cố. Doan sớm gửi cho anh một tấm ảnh lớn. Nam lồng nó vào khung kính đặt nơi đầu giường ngủ. Anh còn phát hiện ra ở xứ này có một loài cỏ không có tên, hoa trắng và nhỏ như hạt đậu. Giống hoa này có nhiều ở sau làng anh. Ngày nào anh cũng cắm nó vào lọ. Thành thử xa hàng vạn cây số, căn phòng của anh vẫn gợi nhớ tới những hình ảnh quê nhà.

         Đó là những ngày Nam được gửi vào trường đại học quân sự của nước bạn. Tại đây, sau phần kiến thức cơ bản, anh sẽ được theo học chuyên ngành ra đa. Học viên người châu Á cũng đông. Anh chỉ chơi thân với vài học viên người Việt Nam. Những ngày nghỉ, cả bọn rủ nhau về các vùng lao động thêm kiếm tiền. Nam đã mua được vài món quà ưa thích gửi cho Doan.

         Một năm sau ngày Nam ra đi, Doan vào học tại trường sư phạm. Cô hạnh phúc trong tình yêu với Nam. Còn Nam là hình ảnh lớn để Doan không còn thấy một chàng trai nào khác. Nhiều người đến thăm cô. Không ít kẻ tán tỉnh, tặng quà. Nhưng tất cả đám đông có lúc ồn ào ấy thật mờ nhạt đối vối Doan. Cô đã bị mang tiếng là cô gái kiêu kỳ. Mặc kệ, Doan chấp nhận. Và họ nói là đúng. Chưa ai bằng Nam của Doan. Có một ngày thật đẹp sẽ đến. Một tương lai rực rỡ đang chờ đợi. Không tuần nào Nam không có thư. Và trong một lá thư, mọi sinh hoạt, học tập và cả niềm suy nghĩ, Nam đều kể lại cho Doan biết từng ngày một. Vì thế suốt ngày Doan im lặng sống bên Nam. Họ như bắt được tần số nghĩ của nhau. Và như họ vẫn thấy nhau đi lại, học tập, sinh hoạt, nghĩ ngợi. Đã có lần thật kỳ diệu. Rõ ràng Doan thấy Nam đang chuẩn bị đi xem hát với hai anh bạn học viên. Cô vội vàng dậy ghi ngày giờ đó vào sổ tay. Và lạ chưa, tuần sau, Nam đánh thư về kể chuyện buổi tối đi xem phim ấy như thế nào. Ngày giờ trùng với ngày giờ mà Doan cảm giác được. Kể từ lúc đó Doan thích thú chơi trò hình dung và tự đoán. Trò chơi của cô được ghi vào nhật ký và đều được chép lại trong thư từ cho Nam. Cả hai đều kinh ngạc vì hầu hết các dự đoán của họ đều gần đúng.

         Ngày đó, chiến tranh như đám cháy lớn đang lan từ miền Nam ra phía Bắc. Đối với Doan, chiến tranh là tiếng nổ thật to. Chính mắt cô trông rõ chiếc sà lan nép bên dòng sông Hồng bị hai quả rốc két phá tung. Sau tiếng nổ hình như được bắn từ rất xa, một lúc mới nghe phản lực gào lên rung chuyển. Trẻ con phải đội mũ rơm đến lớp. Trai tráng trong làng lần lượt ra đi. Nhiều người trong sốhọ đã không trở lại.

         Doan vừa làm cô giáo được vài tháng thì có tin Nam sẽ được về sớm. Lứa đi học của các anh sẽ trở về trước thời hạn. Anh mập mờ nói rằng trong nước yêu cầu như vậy. Quả thực ngày ấy chúng ta đang rất thiếu các sĩ quan giỏi về ra đa, con mắt nhìn lên bầu trời. Thiếu con mắt ấy chắc chắn cuộc chiến đấu vối không lực Mỹ sẽ không có hiệu quả.

         Sau ít năm ở nước bạn, Nam đã có ngoại hình thay đổi đáng kể, anh cao lớn hơn, đầy đặn hơn. Phong độ của anh rất xứng đáng là một sĩ quan trẻ. Chuẩn bị đến ngày về. Nam bồn chồn không yên. Anh nghĩ đến phút giây hạnh phúc nhất: lúc đầu tiên sẽ gặp lại Doan. Cô gái xinh đẹp của anh. Cô gái đã gắn với anh bằng bao kỷ niệm quê nhà. Cô đã mạnh hơn và thắng tất cả những người con gái rất có thiện cảm với anh bao năm ở xa.

         Doan cũng vậy. Tiềm thức xui cô bước vào cuộc chuẩn bị lặng lẽ. Cô may lại quần áo, mua thêm guốc dép. Và cái ngày cô chờ đợi đã đến. Hôm ấy đang lên lớp, tự nhiên cô thấy hai má nóng bừng. Viết xong bài toán lên bảng đen ngoảnh ra sân trường, cô đã thấy một sĩ quan cao lớn đi vào. Suýt cô không nhận ra anh. Anh đổi thay nhiều quá. Anh có vẻ đẹp giống như người nước ngoài. Mặt cô chợt tái đi. Viên phấn trong tay rơi xuống đất. Sau đó, hai má Doan tự nhiên chín đỏ. Quên cả xin phép học sinh, cô chạy ra đón anh. Cả hai đều ấp úng không nói thành lời. Khi đưa Nam về phòng, họ đổ vào nhau như quả chín tự nhiên rụng xuống rơi vào tay người làm vườn.

         Đêm hôm đó, trăng thật sáng, Nam và Doan đi bộ ra bờ đê. Sát bên nhau mà họ vẫn thấy chưa đủ. Hình như trong mỗi người đang yêu đều có một đứa trẻ. Họ hôn nhau. Họ nô đùa. Cho anh đụng vào cái này! Nam vừa nói vừa chỉ vào ngực Doan. Mắt cô tinh nghịch, long lanh. Cô không nói là đồng ý. Nhưng khi Nam từ từ cởi cúc áo ngực, cô không phản đối. Mắt Nam chợt sáng bừng lên. Bộ ngực rung rinh sau làn áo mỏng lộ ra sáng lóa. Nam đặt cả gương mặt của mình vào đó. Tất nhiên sức sống mạnh mẽ và tràn trề của đôi trai gái đã không ghìm lại được. Nam ép Doan đẩy sự việc tới cùng. Doãn vùng vẫy chống lại. Nhưng khi Nam nhụt chí, lại là lúc Doan hoàn toàn như dòng lũ dâng lên sùng sục. Cô nằm giữa bãi cỏ. Trong ánh trăng lạnh lẽo, mắt Doan hơi khép hờ. Nam ập đến, không đừng được. Họ đã dâng hiến cho nhau. Mãn nguyện. Trong ít phút, đôi trai gái câm lặng vì sự no đủ. Sau đó, cả hai bàn về lễ cưới.

         Vào cuối năm đó, địch đánh rất mạnh. Không ngày nào không có vài tốp máy bay lăn xả xuống Long Biên, Yên Viên, Hà Nội. Nam được biên chế ngay về trạm ra-đa 601. Công việc giữ chặt anh ở đấy. Có nhiều cuộc hẹn anh phải bỏ dở. Liên tục báo động. Có hôm sau giờ giảng bài, Doan phải vào trận địa thăm Nam. Đến nơi, cô mới biết Nam bận thật sự. Thế mà có lúc lỗi hẹn, cô đã thầm trách anh. Cô muốn đến chỗ anh. Lúc anh tiễn qua cụm chuối tiêu của trận địa Doan chủ động dừng lại để Nam hôn.

         Hai tháng nữa họ sẽ cưới. Nhưng ở trung đoàn bỗng xảy ra sự cố. Không biết kẻ địch dùng chiến thuật gì mà những tốp phản lực xuất hiện trên bầu trời Hà Nội, ra-đa của ta không bắt được. Sĩ quan điều khiển tên lửa Nguyễn Minh Tân gọi điện sang phân đội ra-đa mắng rất tục. Cũng may người đàn ông ấy ai cũng biết. Mọi người đều kính trọng anh. Họ tha thứ cho sự quá ngôn của anh. Nhưng Nam thì không. Anh đi tắt cánh đồng sang gặp Tân. Vừa nhác thấy con người nổi tiếng điều khiển tên lửa tầm thấp này, Nam đã bị diện mạo rất đẹp của anh ta khuất phục. Đáng mặt đàn ông lắm. Sau khi bắt tay, Tân chẳng chào hỏi gì cả nói luôn. Anh yêu cầu Nam phải bắt đúng và sớm tất cả các trường hợp máy bay xâm nhập. Bất kể loại máy bay gì, tọa độ, cự ly, phương vị nào.

         Nam tự ái. Nhưng anh nghĩ, ra-đa không tóm đúng mục tiêu, dứt khoát sẽ chưa nói chuyện với con người kiêu hùng này được. Về lại trận địa, anh vội vã lấy xe tạt qua nhà dặn Doan sắp tới anh sẽ bận. Doan không kịp nấu cơm ăn, Nam đã phải đi. Họ ôm chầm lấy nhau ở đầu ngõ. Hai cậu học trò vạch lá chỉ vào họ toét miệng cười.

         Từ chỉ huy phân đội, Nam trực tiếp xuống làm trắc thủ. Anh quyết không để cho bọn cao xạ và tên lửa mắng mỏ. Chiều hôm đó, báo động. Anh chăm chú cho lưới pa-ra-bôn quét sóng ở phương vị 185. Cùng lúc đó, anh ghìm nút chống nhiễu. Mục tiêu hiện lên. Hai đốm sáng hình ê-líp lừ lừ rõ dần. Được mục tiêu, cung cấp tình báo cho pháo điểm xạ bốn loạt. Ba phút sau đó Nam được báo lại: hai chiếc AD6, mục tiêu được bắn theo thông số của Nam đã trút bom bình tĩnh xuống Yên Viên bay ra vô sự. Không những thế, tên phi công còn cố ý bay vòng giễu cợt ra-đa và các trận địa phòng không của ta.

         Những ngày đó nhiều lúc Nam bị hút hoàn toàn vào công việc. Anh quên cả Doan. Quên cả việc chuẩn bị cho ngày cưới sắp đến. Anh cay cú với những ma thuật của bọn lái Mỹ. Và anh vẫn chưa quên vẻ mặt trịch thượng của anh chàng sĩ quan điều khiển. Vốn là người nhạy cảm, anh đã hiện lên một dự đoán: Từ xa, máy bay Mỹ thường bay thấp. Cùng lúc lẩn mình trong các lòng núi, đám mây, chúng mới lấy độ cao để cắt bom hoặc bắn tên lửa. Anh cần có thời gian để kiểm nghiệm.

         Một giờ chiều hôm đó toàn trận địa lại báo động. Hai chiếc AD6 bay vào từ phía cửa sông Hồng. Nam chăm chú điều khiển ra-đa quay pa-ra-bôn về hướng có địch. Mục tiêu một hiện lên rồi mất hút. Giây phút đó, mục tiêu hai cũng mờ mờ lộ ra. Và sau hai ba giây, cả hai mục tiêu đều bị xóa trên màn hiện hình. Ở phương vị đó chỉ còn lại một dải nhiễu tiêu cực. Nam “cú” lắm. Anh toát mồ hôi. Thất vọng như vừa bị đấm vào mặt. Anh quát to: sục sạo phương vị 150 – 180 cự ly 20.

         Pa-ra-bôn vội vã điều chỉnh về hướng có địch. Dây quét trên màn hình rà sát rất kỹ tầm thấp, các hõm núi, lòng sông. Chợt vệt sáng nhỏ như hạt gạo màu sữa hiện ra. Nam trực tiếp ra lệnh cho trắc thủ quét sóng kiểm tra và liên tục báo cự ly về sở chỉ huy. Không thể nào trật được. Lần này sau ba loạt điểm xạ cả hai chiếc AD6 đều bị phơi bụng.

         Nam tự hào lắm. Anh thấy mình đàng hoàng hẳn lên. Sự yên ổn và phấn khởi anh vừa tạo ra được đã cho phép anh nghĩ đến Doan. Họ đẹp đôi lắm. Ai cũng bảo vậy. Giờ đây, sau lần đầu tiên “biết nhau” trên bờ đê làng, tình yêu của họ càng trở nên có chiều sâu. Anh đã coi Doan như vợ mình. Sau lúc rảnh rỗi anh lại nhớ đến Doan. Nỗi nhớ có mùi da thịt hẳn hoi.

         Nam bắt đầu được nhắc đến như một sĩ quan ra-đa giỏi. Ngoài kỹ thuật ra, anh còn có độ tinh nhạy không lý giải được. Anh cảm thấy bắt đầu hiểu cách nghĩ của các phi công Mỹ. Chúng thường dùng chống nhiễu xen với kỹ thuật biến hóa tinh xảo. Nếu chiếc máy bay trước đó vài giây dẫn đầu, thì ngay sau đó, khi tụt lại phía sau, lập tức nó nâng hoặc hạ độ cao. Nhiều trắc thủ của ta đã quay góc tà không kịp và để mất mục tiêu. Nam được mời đến nhiều cuộc giao ban để phổ biến kinh nghiệm này.

         Nam được sư đoàn góp phần tham gia chuẩn bị cho ngày cưới. Cứ mỗi lúc có ô-tô về làng, ai cũng thấy rộn rịp. Ông Tộ rất tự hào về chàng rể tương lai. Nam còn có anh bạn công binh rất tinh nghịch. Hôm xe về, anh ta xách xuống gửi tặng Doan nửa bao tải bom bi. Cả nhà thất kinh. Đủ thời gian để mọi người tái mặt, cậu ta mới cầm lấy trái bom bi rỗng ruột, rút ra một bông hồng có sẵn cắm vào đó. Tất cả đều ồ lên, thở phào vui vẻ. Anh chàng Tân sĩ quan điều khiển tên lửa nọ bây giờ là trung đoàn phó. Tuy có vẻ trịch thượng, dáng Từ Hải, nhưng con người đó thật đầm ấm. Tân cũng mê độ nhạy cảm trong sử dụng ra-đa của Nam. Anh đã “mượn” Nam một đêm trong trận đánh cháy hai ép bốn. Sau cái đêm mượn Nam đó, Tân rất quý viên sĩ quan trẻ có phong độ hơi Tây này.

         Nhưng sự đời như là có số phận ấy. Sau buổi tối rất đông người đến nhà ông Tộ ấy, tất cả các trận địa phòng không báo động cấp 3. Cấm không được phép bất kỳ ai rời trận địa một phút. Mỹ mở chiến dịch tấn công B52 hủy diệt Hà Nội. Mười hai ngày đêm bám trên xe phát sóng. Không có lấy một giờ báo yên. Hơn một tuần đầu, do căm thù địch, Nam cùng kíp trực đã không rời trận địa. Rất nhiều lúc cấp bách, lệnh phát sóng ngắn để bắt mục tiêu, các sĩ quan ở lỳ trong xe, bất chấp các nguyên tắc kỹ thuật liên quan đến sức khỏe và số phận con người.

         Nhiều B52 đã rơi trên Hà Nội. Nhưng ngay sau đó, Nam thấy trong cơ thể mình có sự chuyển hóa là lạ. Anh mệt như bị đánh. Và đêm ngủ, anh thấy mình lơ lửng như trôi trong không gian. Đặc biệt từ sâu trong cơ thể anh thoát ra một thứ nước là lạ. Anh không sao kìm giữ được. Là người hiểu biết anh có cảm giác xấu về sức khỏe. Anh hết sức hoang mang. Tuy có gầy rộc đi, vẻ mặt tái mét, môi thâm, Nam vẫn giữ được phong độ đàng hoàng, thung dung. Hàng ngày, anh vẫn trực chỉ huy, giao ban đánh địch. Có những kíp trắc thủ lão luyệt, quét sóng, vẫn bị các phi công Mỹ lẩn tránh được. Nhưng đích thân Nam rà sát, quét sóng, moi móc các phương vị, góc hẹp, các hõm núi, chỉ một lát đã bật ra tín hiệu thực.

         Nam thưa về với Doan hơn. Anh biết mình đã bị một căn bệnh chỉ những ai làm ra-đa mới biết. Anh trở thành con người âm thầm khó hiểu. Những lần tới trận địa sau đó, Doan nhận ra sự uể oải, lạnh nhạt của Nam. Cô gặng hỏi, Nam chỉ cười hiền lành, bảo không có gì. Doan không tin. Cô hỏi dò mấy cán bộ lâu nay đã quen biết. Không ai thấy có thư lạ, hay một cô gái nào đó đến thăm Nam.

         Cho đến một hôm, Doan có tin vui. Cô được sở giáo dục khen thưởng. Vừa đến trận địa, cô đã sà vào Nam. Cô tìm kiếm cảm giác ấm cúng được vuốt ve của anh. Cô áp người vào anh, cô loay hoay như con mèo tìm hơi ấm trong lòng con người. Cô giật mình nhận ra bên cạnh cô, Nam cứng như gỗ đá. Anh thế nào ấy, Doan xoay hẳn người, ngửa mặt nhìn vào mắt Nam kêu lên. Anh không lảng tránh. Mắt anh thật sâu, sáng lên như đang cười, nhưng xa vời vợi. Cô không cắt nghĩa được sự thật gì ẩn chứa trong đó. Cô chỉ thấy thiếu, thấy khác, thấy mình không còn nhận được từ thân thể cường tráng, tràn đầy sinh lực kia một bàn tay, sức nóng của đàn ông. Cái sức nóng truyền cảm mà thường ra nó đầy ắp, rạo rực trong Nam. Cô chết lặng đi và bật khóc hu hu. Nam xoay người dỗ dành Doan, vuốt ve, động viên cô. Anh kể tiếu lâm để cô cười. Cố gắng bao nhiêu, anh càng nhận rõ sự lạnh vắng đang vây tỏa. Có khối đen vô hình đang trôi lù lù chiếm lĩnh thân thể anh.

         Nam rất biết sự chuyển biến ấy. Không còn cách nào khác, anh lờ dần ngày cưới. Doan đau đớn, bực bội, hờn ghen. Có buổi gặp một mình Nam, cô còn làm ầm ĩ lên. Cô vật vã đau đớn nhận kết cục xấu từ ngày chưa yêu, cô đã linh cảm thấy. Biết mà! Doan nghĩ. Ai cũng bảo sao mắt mày buồn thế! Rồi một ngày, Doan nhận được thư của Nam. Anh đến tận nơi, đàng hoàng trao lá thư ngắn cho Doan rồi ra về. Tuy đoán được trước sự việc, Doan vẫn hốt hoảng. Mở thư ra xem Nam viết không dài. Anh chỉ thông báo mình nhỡ có chuyện với nữ dân quân. Nếu không có hậu quả thì chắc chắn còn có thể sửa chữa được. Doan vứt lá thư như người ta vứt cái cốc vào mặt Nam. Đến để chia tay, vĩnh biệt, nên Nam có tặng Doan bọc quà kỷ niệm. Doan điên lên, vứt tung dây buộc, vải này! Cô vừa nức nở vừa ném ra sân. Son phấn này! Cô lại vứt loảng xoảng xuống đất. Chưa hết căm tức, cô còn lấy chân dẫm nát thứ đồ đạc vô tội đó. Cực đoan hơn, Doan còn lội phăng đến mấy trận địa phối hợp của dân quân. Trong tay Doan có sẵn lọ nước không màu. Chỉ cần biết mặt con đĩ ấy, Doan sẽ cho nó biết tay! Con người xinh đẹp, đoan trang và chừng mực ngần ấy chợt nổi đóa lên. Các nữ dân quân đang trực chiến thấy Doan đều rùng mình lắc đầu.

         Có lẽ hai năm sau, Doan mới dịu đi căm hờn sự phản bội của Nam. Chị đã lấy chồng. Chồng chị là một kỹ sư hơn Nam hai tuổi. Anh đàng hoàng, đứng đắn và có địa vị khoa học.

         Khi con trai của họ một tuổi thì nhà có khách. Nam đến chơi.

         Thoạt đầu Doan không tiếp. Chị còn đề nghị Nam ra về. Nam hơi rụt rè và buồn. Nhưng cái phút căng thẳng ban đầu rồi cũng qua đi. Dù sao, họ cũng là người cùng làng. Doan miễn cưỡng tiếp Nam và trông thằng con trai đang nghịch. “Anh muốn nói điều cuối cùng với Doan”. Nam mở đầu như vậy. Doan ngạc nhiên tròn xoe mắt. Doan cũng được biết cho tới giờ, Nam vẫn chưa cùng ai. Nam kể hết mọi sự cố xảy ra. Càng nghe, mặt Doan càng tái đi. Chị gật đầu thừa nhận điều Nam nói. Rồi bất ngờ, chị gục mặt vào lòng Nam khóc nức nở.

         Hôm nay, sau hai mươi năm, Nam vẫn không lấy vợ. Ai cũng nghĩ anh lạ lùng. Vì lý do sức khỏe nên Nam đã nghỉ hưu. Nếu bạn muốn tò mò biết có một thời như vậy, một người như vậy, xin mời! Anh là người có thật chứ không phải là một hình ảnh tạo dựng. Cạnh một quầy đại lý xổ số Hà Nội, Nam vẫn giản dị và cởi mở với khách. Anh vẫn sống bình yên, và nếu làm được tiền, lại mua quà gửi cho những đứa con của Doan. Trong hai đứa bé kháu khỉnh, thông minh, cô bé gái mẹ nó đặt tên là Thùy Nam.

1992

NGƯỜI ĐƯA TA QUA SÔNG

         Mùa đông năm 1971, tôi dẫn một tổ canô về nhận công tác tại bến phà Long Đại. Gọi là một tổ, nhưng thực ra chỉ có hai người. Toàn lái chiếc canô 49 và tôi, vừa thợ máy vừa là chỉ huy. Trinh sát của lữ đoàn đã tìm cho chúng tôi một chỗ trú chân khá thú vị. Ven sông Nhật Lệ có một cái làng nhỏ, đó là xóm Cát. Xóm chỉ có mười một nóc nhà được trùm kín bởi tre xanh, chuối mít và cam. Mười một nóc nhà tưởng như còn nguyên vẹn. Nhưng thực ra đó là mười một cái xác nhà còn nằm trên mặt đất. Ruột nhà gồm vách gỗ, tủ, giường, xe đạp, cho đến bát đũa đều được hạ xuống những căn hầm hình chữ nhật và chữ A. Mọi sinh hoạt đều diễn ra dưới lòng đất. Ban đêm, canô của chúng tôi ngược dòng Nhật Lệ đẩy phà đưa xe pháo qua sông, ban ngày chúng tôi đưa canô về xóm Cát để giấu. Cái lạch nhỏ nguyên mùa mưa là cả một dòng suối hung dữ, đến mùa khô thành con suối thật hiền, dân quân của xóm cùng với mấy chiến sĩ trinh sát đào sâu vào bờ thành cái âu giấu canô. Chiếc canô của chúng tôi được neo vào, cột dây lên bụi tre đã từng bị sóng đánh trơ ra cả cụm.

         Trung đội trưởng dân quân và người chiến sĩ trinh sát công binh đưa chúng tôi ra chỗ giấu canô. Còn chỗ ăn nghỉ đơn vị đã ủy thác hoàn toàn cho dân quân xóm Cát. Dân quân xóm Cát lại giao việc đó cho mẹ Tám.

         Chiến tranh mà… Chúng tôi ăn uống thế nào cũng được.

         Tôi trả lời và nhìn theo cánh tay chỉ của đồng chí trung đội trưởng dân quân. Tôi thấy nhà mẹ Tám là một ngôi nhà tranh thấp, cách chỗ giấu canô chừng vài chục bước chân.

         Tôi và Toàn vội chia tay đồng chí trung đội trưởng công binh miền trung đen nhẻm ấy. Chúng tôi đi bộ về lữ đoàn mất một tiếng. Đúng năm giờ chiều, tôi và Toàn ra canô nổ máy chạy xuôi về làng Cát.

         Buộc canô vào bụi tre, chúng tôi mang ba lô, đồ đạc lên nhà mẹ Tám. Vừa bước vào cái nền nhà rộng và trống, hai chúng tôi gặp ngay một cô gái bé nhỏ thanh mảnh, chừng độ mười bảy, mười tám tuổi.

         –        Chào em.

         –        Dạ.

         Cô gái đáp rất nhỏ, gương mặt cô còn trẻ con, nhưng vẻ mặt, thái độ lại có vẻ từ tốn, người lớn. Chúng tôi không chú ý gì đến cô, chúi đầu vào việc thu xếp đồ đạc và chỗ ngủ ngày hôm đó. Chỉ một lát sau, cô bé đã đi từ dưới hầm lớn lên, nói nhỏ nhẹ:

         –        Mời các anh đi ăn cơm ạ.

         –        Ăn cơm?

         Tôi hỏi lại. Cô gái trả lời và nhìn tôi với đôi mắt mở to, im lặng.

         –        Dạ. Biết chiều nay các anh về, em đã nấu cơm sẵn.

         Hai chúng tôi về dưới nhà hầm. Khu hầm chia làm hai. Một căn hầm được dùng làm chỗ nấu nướng, ăn uống và sinh hoạt. Căn hầm chữ A kiên cố, có nắp đậy là chỗ ngủ. Từ ngoài nhìn vào cửa hầm, nó mang dáng vẻ của một căn hầm có phụ nữ ở. Trong cùng là chiếc vali còn mới. Một cái dây treo áo, khá nhiều quần áo màu. Sạp nằm là chiếc phản gỗ trải chiếu hoa, tất cả gợi lên sự giản dị, sạch sẽ và gọn gàng. Tôi và Toàn đang cố ý chờ, thì cô gái đi từ trên nhà xuống giục:

         –        Các anh ăn cơm đi ạ. Để lâu cơm nguội mất.

         –        Thế còn…?

         Tôi định hỏi thêm. Ánh mắt cô gái thoáng vẻ mặt ngạc nhiên:

         –        Chỉ có hai anh thôi ạ!

         –        Thế còn mẹ Tám và thằng em út đâu?

         Tôi hỏi vì tôi láng máng được giới thiệu rằng trong nhà ba người như vậy. Cô gái nhỏ lại nói với giọng từ tốn.

         –        Dạ. Mẹ em đã mất cách đây hai năm rồi ạ. Thằng út đêm nó mới về. Em gửi nó học ở xã bên. Ở đây, dạo này bọn Mỹ hay đánh lung tung lắm.

         –        Trời ơi!           .

         Toàn buột miệng kêu lên. Chúng tôi có phần sửng sốt. Còn cô gái vẫn thản nhiên một cách kỳ lạ. Có thể mẹ mất hai năm cô đã quen rồi chăng. Tôi nhấc lồng bàn: một bát canh to, một đĩa cá kho và bát dền đỏ luộc đã được sắp sẵn. Hai chiếc bát và hai đôi đũa cũng được xếp vào đúng hai phía ghế ngồi.

         Đêm hôm ấy, khi út Sinh về, chúng tôi càng thêm ngạc nhiên. Căn nhà này chỉ còn hai người. Chị út Sinh tên Hiền, mười chín tuổi, và cậu ta mười hai. Út Sinh là đứa bé nghịch ngợm, có đôi mắt xếch trong veo như khoảng trời buổi sáng. Cậu ta hoàn toàn phục tùng chị như phục tùng một vị chỉ huy dứt khoát và có tài.

         Hiền múc một chậu nước to và út Sinh đang nhẩy như con cào cào, nghe chị gọi đến ngồi xuống ngoan ngoãn để chị lau rửa mặt mũi. Rửa mặt xong, út Sinh rất muốn leo lên võng của tôi và Toàn. Chân cậu nhấp nhổm, mắt cứ liếc ra chỗ chúng tôi. Nhưng cái nhìn của Hiền có hiệu lực như chiếc dây vô hình căng giữ chân Sinh lại. Cậu ta tỏ vẻ hậm hực mà không dám kêu. Hiền mang quần áo của em ra giặt giũ, phơi phóng. Đêm xuống, theo lời của chị, mặc dù không thích tý nào, Sinh vẫn phải đốt đèn trong hầm, lôi sách ra ê a đọc. Cậu đọc như hát:

         –        Trong đầm gì đẹp bằng sen

         –        Lá xanh bông trắng lại chen…

         Vừa đọc út Sinh vừa ngó ra hai chiếc võng của chúng tôi. Nghe im một lúc, tiếng Hiền vang lên, nhỏ nhẹ và dứt khoát.

         –        Kìa út!

         Út Sinh lại chúi đầu vào sách:

         –        Trong đầm… trong đầm gì đẹp bằng sen.

*

         Mùa khô năm ấy ác liệt thật. Địch liên tục dùng B.52 dội bom xuống khu vực nam phà Long Đại. Phía bắc phà, chúng rải tọa độ, Còn dọc sông, chúng thả bom từ trường và thủy lôi. Các làng mặc bắc và nam Long Đại không ngày nào không đánh bom sát thương, bom bi.

         Chúng tôi đã bắt đầu công việc, xế trưa tôi và Toàn ra sông chuẩn bị nanô. Cái nắng của miền Trung nóng và oi như ngồi bên bếp lửa. Toàn cởi áo vắt lên cành tre. Chúng tôi chuyển dần đồ đạc vào đầu máy. Tôi tranh thủ quét sàn canô, dọn lại buồng lái, mặt boong. Phải nói, chiếc canô có vẻ ngoài thật xấu. Toàn thân nó cũ kỹ, lườn phải móp mép. Nó chỉ có một ưu điểm là dễ nổ và máy rất khỏe. Nếu được chạy không tải trên sông, nó lao đi như mũi tên. Hôm đưa xe tăng của ta qua sông, trung đội trưởng bến phà xếp hai chiếc một lần. Chúng tôi e ngại canô sẽ không thể nào xoay nổi con phà to lớn như cái sân hợp tác ấy. Ai ngờ khi nó nổ máy, chân vịt hoạt động, cả một vùng nước bị khuấy tung lên rồi con phà nhúc nhích dần, chuyển hướng.

         Toàn đã sống với canô 49 như một người bạn. Một lần, máy bị sặc nước do bom đánh, không nổ được. Chữa mãi vẫn không được. Toàn đã cáu gắt um lên.

         –        Tiên sư mày! Này!

         Cu cậu giáng một quả đấm mạnh vào mặt boong. Nhưng chỉ lát sau, nguôi giận. Toàn lại chăm chỉ tháo bộ khí, bộ dầu, lau rửa. Chiếc canô nổ rồi, cu cậu lại lặng lẽ lau chùi, lấy búa nhỏ gõ phẳng những chỗ bị mảnh bom hay đá phang vào.

         Đang cặm cụi cho máy ăn dầu, Toàn nghĩ đến cô gái chủ nhà trẻ tuổi. Cụ cậu tỏ vẻ thương hại Hiền. Bất giác Toàn nói với tôi trong lúc đang lọc dầu nhờn.

         –        Anh Hùng ạ, anh có thấy cô bé chủ nhà kỳ lạ không?

         –        Một cô gái sớm có bản lĩnh đấy.

         –        Ôi! Không phải. Tôi thấy cô ta tồi tội thế nào ấy. Tuổi cô ta còn ít mà đã phải sống như một bà mẹ.

         –        Ngược lại, tớ lại thấy khâm phục cô ta. Bố mẹ đều chết bom. Anh đi bộ đội xa. Chưa tới hai mươi tuổi đầu đã phải gánh trách nhiệm của cả người cha lẫn người mẹ. Nếu là hoàn cảnh gia đình cậu chắc cậu sẽ là thằng đi ăn mày.

         Toàn im lặng không nói gì. Trong lúc chúng tôi chuẩn bị cho canô lên đường thì ở nhà, Hiền đã cơm nước dường như xong xuôi. Chúng tôi về vào lúc cô đang dùng chiếc khăn bông lau bát đũa. Tôi thích thú từng động tác nhỏ của Hiền. Cô làm việc gì cũng nhanh gọn, sạch sẽ và rất mau chóng có kết quả. Thấy tôi bước vào nhà, Hiền mỉm cười. Hai má cô vì ở bên bếp lửa, đỏ chín lên. Lần đầu tiên tôi thấy được nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt trắng trẻo sớm có nét đoan trang ấy.

         –        Các anh về ăn cơm để đi thôi ạ.

         Tôi và Toàn dường như có hai thái độ khác nhau đối với cô. Tôi thì thân mật và bình đẳng. Còn Toàn có phần thương hại và coi thường Hiền. Chúng tôi ngồi xuống bên mâm cơm đã sắp sẵn giống như hôm qua. Mùi canh cá quả bay lên thơm phức.

         –        Các anh sẽ mang những thứ này đi chứ ạ.

         Nghe cô gái hỏi, tôi mới chú ý tới những mảnh dù nhuộm trầu không khoang lổ màu đất, dùng để ngụy trang mà cô đã giặt phơi từ sáng.

         –        Để làm gì?

         Toàn hỏi trống không với thái độ hoàn toàn vô ý. Hiền trả lời dịu dàng:

         Các anh cần phải mang đi để ngụy trang chứ? Nhỡ đang ở giữa sông có máy bay định thả đèn thì sao? Các anh lái canô phà trước đây vẫn thường làm như vậy mà.

         Toàn phá ra cười to:

         –        Thế tốp lái canô trước ở đây thật à?

         –        Dạ.

         Lúc đó tôi mới biết cô gái đã chuẩn bị từ sáng cho cuộc lên đường trước của chúng tôi. Tôi cảm thấy biết ơn Hiền.

         –        Em cứ mang vào đây cho các anh. Nhiều lúc sẽ cần tới nó em ạ.

         Cô gái rút những tấm dù đã được giặt sạch sẽ, gấp lại vuốt thẳng, đặt ngay bên những đồ đạc mà chúng tôi sẽ mang đi. Bữa ăn kết thúc, chúng tôi vội vã ra canô. Hiền mang đỡ cho chúng tôi ra tận bến.

         Dọc đường lên bến, chúng tôi còn có một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là phải phá hai quả bom từ trường địch ném cách đó ba ngày chưa nổ. Vừa đến bến cụt, Toàn cho canô chạy nhẹ dần. Chiếc canô đang lướt bị sức ì của nước kéo trì lại. Tôi giục:

         –        Phải mặc áp giáp vào đấy Toàn ạ.

         Toàn lặng thinh. Trong tổ, tôi là người nhiều tuổi, là chỉ huy, nhưng cũng là người anh, chuyên môn giúp việc, không chế tính chủ quan, liều lĩnh của Toàn. Hai mươi ba tuổi đã có lúc cậu ta đùa trên sóng, nô giỡn với cái chết. Dọc đường vào Long Đại, không có tôi, canô 49 và Toàn đã bay trên sông tại bắc phà Xuân Sơn. Tính cương quyết của tôi hôm đó thật được việc. Tôi đã không cho Toàn đi một khi vẫn nghi còn bom từ trường nằm dưới đáy bùn của dòng sông. Toàn vẫn rẽ canô sát bờ đòi đi cho nhanh. Buộc lòng tôi phải gạt tay lái dứt khoát bắt Toàn quay lại. Và khi rà lại đoạn sông, trái bom nằm chờ dưới đáy bùn đã nổ.

         Tôi ném áo giáp ra mặt boong:

         –        Mặc vào.

         Toàn cười hề hề:

         –        Nóng quá anh Hùng ạ. Anh khỏi lo, con người có số cả.

         –        Số này!

         Tôi choàng áo giáp vào vai Toàn. Bị ép, cu cậu mới chịu mặc chiếc áo nặng trịch ấy vào người. Mặc áo xong xuôi, xác định cự ly mặt sông và vị trí quả từ trường. Toàn nổ ga. Chiếc canô bị thúc mạnh, chồm lên tạo thành một vệt sóng lớn. Chúng tôi sẽ lướt canô thật nhanh cách vết bom khoảng 200 mét. Bị kích từ, trái bom sẽ nổ tung. Tôi vội vã làm nốt những công việc còn lại: đắp tấm che mảnh bom được kết bằng rơm cho máy. Toàn đếm đều đặn:

         –        Một trăm mét… Hai trăm mét… chuẩn bị.

         Cu cậu quơ vội mũ sắt chụp vào đầu, láng tay lái cho canô lướt sang phải. Bất chợt một cột nước bốc dựng lên. Một tiếng “ùm” thật dữ dội. Tiếng nổ như âm vang từ sâu trong lòng đất, lòng nước bật lên. Mặt sông lay chuyển dữ dội. Mảnh bom và những khối nước té rào rào lên boong, cả tôi và Toàn đều rút vội vào nách buồng lái.

*

         Ở làng Cát được ít ngày, tôi mới biết thêm được nhiều điều về Hiền. Cô gái trẻ trung ấy học đến lớp 10 thì mẹ, người bảo trợ duy nhất của cô, trong một chuyến đò đưa bộ đội qua sông đã hy sinh vì thủy lôi của địch. Lẽ ra Hiền đã vào đại học sư phạm như giấy gọi đánh về. Nhưng Hiền đã phải ở nhà để nuôi em, và trông coi nhà cửa thay cho anh trai đi chiến đấu xa. Bấy giờ, ngoài phần việc của hợp tác, Hiền còn làm nhiệm vụ nấu ăn cho chúng tôi và cùng tổ dân quân nữ, đảm nhiệm việc nghi binh bến phà sát bến cụt.

         Mỗi một ngày tôi càng cảm thấy ở cô gái thanh mảnh này một niềm tin thật vững vàng. Cô đã làm những công việc của riêng mình một cách mau lẹ và rất có kết quả. Cô có nét từng trải như của một người mẹ. Lần đầu tôi thấy cô đã chăm sóc, nuôi dưỡng chúng tôi đúng như một người chị. Tôi nhận ra cô rất hay cho chúng tôi ăn canh cá quả. Cô mua những chú cá tươi còn quẫy về, đánh vảy, mổ xong, nướng qua than cho thật vàng rồi bóc ra nấu canh. Tôi sà vào chỗ cô làm hỏi:

         –        Tại sao Hiền lại hay nấu loại canh này thế?

         Hiền mỉm cười dụi cánh tay vào má.

         –        Anh không thích sao?

         –        Có chứ. Nhưng tôi hỏi sao Hiền lại hay nấu loại canh này?

         –        Chợ ở đây nhiều cá quả anh ạ… Với lại.. Có lần em nghe, có anh nói ở ngoài Bắc, loại cá này hiếm và đắt lắm. Ai có tiền nhiều mới được ăn.

         Tôi cười. Hiền tỏ ý không hiểu vì sao tôi cười. Cô ngẩng đầu nhìn tôi rồi lại chăm chú vào công việc. Cô đã phục vụ chúng tôi mà không hề đòi một lời khen ngợi, một sự quan tâm. Còn Toàn, cậu ta chưa hề nói với cô một câu nào thật nghiêm chỉnh, kể từ khi đến ở nhà cô. Có một lần Toàn hỏi Hiền một câu, lại chính là câu nói khiến Hiền mếch lòng. Đó là lúc cu cậu đi tìm khăn mặt của mình. Tìm lơ láo một lúc không thấy. Toàn gọi:

         –        Nhỏ… Nhỏ có thấy khăn của anh ở đâu không?

         Hiền ngơ ngác nhìn quanh. Cô không hề nghĩ rằng Toàn hỏi mình. Nhưng đôi mắt của Toàn lại nhìn thẳng vào cô.

         –        Nhỏ có thấy chiếc khăn của anh bay đi đâu không?

         –        Dạ.

         Hiền đỏ chín cả mặt. Tôi trách Toàn vì sự vô ý đó. Hiền loay hoay tìm tấm khăn vã cả mồ hôi. Có lẽ chỉ có tôi mới nhận ra sự lúng túng khổ sở đó của Hiền. Cô gái đã tìm thấy chiếc khăn mặt bay ra bụi mía. Cô vẫn nói dịu dàng:

         –        Khăn bị gió bay ra đây anh ạ.

         Cô đưa khăn cho Toàn, rồi lại cắm cúi làm công việc đang bỏ dở. Đôi mắt đen mở to, cái mũi dài và gương mặt sáng trầm tĩnh trông thật dễ chịu. Tôi quay lại nói nhỏ với Toàn:

         –        Hiền đã là một cô gái rồi đấy, cậu phải xưng hô thế nào để tỏ rõ sự tôn trọng người ta chứ?

         Toàn nhìn tôi rồi quay đi không nói gì. Hiền dọn cơm cho chúng tôi rồi cô vội vã đi làm công việc tối hôm đó. Theo lệnh, trong đêm nay các cô sẽ phải mở thêm một bến phà giả cách bến cụt 200 mét. Máy bay địch đã ném hàng trăm quả bom vào bến phà giả cũ. Chúng không kiếm chác được gì, không một chiếc canô hỏng, không một xe cháy và dường như máy bay trinh sát đã phát hiện rõ điều đó nên bỏ đi.

         Hiền vừa ra khỏi nhà, tôi nói ôn tồn với Toàn:

         Cậu thì tốt bụng nhưng rất vô ý. Cô Hiền đã sống với tư cách một người lớn, một cô gái xinh xắn, dịu hiền, cậu lại cứ gọi cô ấy là nhỏ. Cô ta chỉ kém cậu ba bốn tuổi thôi đấy.

         –        Thì có sao đâu?

         Toàn cười có vẻ cợt nhả. Tôi bật cáu, định cho một tràng nữa, cậu ta vội vớ cây đàn ghita đang vứt trên giường, hát to, cốý át tai đi.

         Nghe tiếng sấm vang dội… nghe tiếng sấm vang dội…

         Chính tôi không thể hiểu được rằng giữa lúc Hiền còn đang bất bình một cách kín đáo với Toàn, Hiền và Toàn, từ ngày gặp nhau, chưa trao đổi một lời nào, nhưng tình cảm trong cậu ta đã chuyển dần. Bắt đầu là tình thương và sự quý mến. Về nhà, Toàn không nằm khểnh hát nghêu ngao, cậu đã biết chọn những việc nặng nhất trong nhà làm giúp cô gái thanh mảnh ấy. Cô đi vắng Toàn gánh đầy ang nước, lấy búa bổ xong một đống củi. Đâu vào đấy rồi, cậu trở lại về chỗ cũ trên chiếc võng trước cửa hầm.

         Hiền đi làm ở bến phà nghi binh trở về bước vào gian nhà trống, mắt cô mở to ngạc nhiên. Ngôi nhà rõ ràng đã có bàn tay người đàn ông thu dọn. Mắt cô sáng lên một cách chân thành. Đến cạnh tôi, cô reo nho nhỏ:

         –        Anh Hùng làm cho em phải không?

         Tôi hất hàm:

         –        Cậu Toàn đấy.

         Hiền quay lại nhìn Toàn, không nói gì thêm. Vào lúc đó, Toàn đã ngủ. Việc đó gây cho Hiền sự ngỡ ngàng nho nhỏ. Chỉ có một lát, những cảm giác ấy mất hết. Hôm nay Hiền thật vui vẻ. Cô kể:

         –        Chúng em tin bến phà nghi binh lần này sẽ tốt anh ạ. Làm đường xuống bến và ngụy trang xong đã có chiếc OV.10 nghiêng nghiêng ngó ngó. Nó bay đi chúng em về đến đầu làng đã lại thấy nó bay trở lại.

         –        Nếu nó trúng kế của ta, hôm nay sẽ biết kết quả.

         –        Các anh đêm qua thế nào ạ?

         –        Đẹp thôi. Nhưng cậu Toàn cũng suýt bắn xuống sông. Không ai ngờ chỗ cây gạo chết đứng lại còn một trái thủy lôi.

         Hiền lại ngước nhìn người chiến sĩ đang nằm ngủ trên võng. Cô đã có sự thích thú của một người quan tâm săn sóc.

         –        Lúc chiếc phản lực thả pháo sáng, các anh ở đâu?

         –        Đang cho một đội xe tăng qua sông.

         Vào giữa trưa hôm đó, đúng như Hiền dự kiến, hai chiếc F.4 của địch hùng hổ đến ném bom xuống bến phà giả. Nghe tiếng nổ, tôi chạy ra, Hiền hối hả chạy theo sau, Toàn cũng bật dậy lững thững đi từng bước.

         –        Thật rồi các anh ạ. Thật rồi.

         Tôi thấy Hiền vui quá. Cô reo to hân hoan một cách thành thật.

         –        Thích quá kìa. Bốn quả, anh Hùng kìa.

         Toàn nhại một câu, chủ yếu để chọc cái tính trẻ con của Hiền:

         –        Kìa anh Hùng. Những bốn quả kìa.

         Hai bến phà nghi binh của ta ở Long Đại ngày đó thật có hiệu lực. Ít nhất nó cũng đã san sẻ được một nửa tổng số bom đạn của địch ném xuống dòng sông Nhật Lệ.

*

         Chiến tranh mỗi ngày một thêm khốc liệt. Địch vây con sông Nhật Lệ bằng đủ các loại bom mìn. Có trái bom chìm, có trái nổi lờ đờ ngang mặt nước. Chúng quyết tâm dùng hỏa lực chặt đứt mạch máu giao thông chạy từ bắc Long Đại sang nam Long Đại.

         Tránh nguy hiểm không cần thiết, lữ đoàn ra quyết định mỗi lần canô 49 đi phá bom mìn, chỉ một mình Toàn đảm nhận. Được tin đó, tôi và Hiền hết sức lo lắng. Còn Toàn lại thấy như thế mới có lý.

         –        Tôi chỉ cần một mình thôi, anh Hùng ạ. Anh đi trên đó cũng chẳng để làm gì cả. Anh phải làm việc khi máy nổ hỏng. Anh ở nhà là phải.

         Tôi cho là Toàn đã nói không đúng. Dù không làm gì, có hai người trên một chiếc canô vẫn hay hơn là một người. Hiền sốt ruột thật sự. Cô hết đứng lên lại ngồi xuống. Rõ ràng cô cũng có cảm giác một mình Toàn đi không được ổn lắm. Dọc đường 4 cây số lên phà chính đã phải phá bom mở lối đi. Ấy là chưa kể suốt đêm Toàn còn lái canô đẩy phà. Cô lưỡng lự một hồi lâu rồi mới dám đề xuất:

         –        Hay là anh Hùng hãy cứ đi thêm một đêm nữa xem sao ạ?

         Toàn gạt ngay. Việc đó đối với Toàn như đã được quyết định từ lâu. Trong thâm tâm tôi rất muốn được cùng đi với Toàn. Nhưng lữ đoàn rút tôi về trung đội phà, hoàn toàn là việc cần thiết. Tôi và Toàn dễ thỏa thuận với nhau, chỉ có Hiền là áy náy. Mọi bận, chúng tôi tự đi ra bến, Hôm nay Hiền lặng lẽ mang hộ Toàn chiếc phao, tấm áo giáp đã gấp gọn và hộp đồ nghề. Toàn trêu Hiền:

         –        Nhỏ, mang thêm cái này nữa!

         Cậu úp sụp chiếc mũ sắt vào đầu Hiền. Cô gái giẫy lên rồi lừ mắt cố ý trừng phạt cậu. Tôi biết. Giữa hai người đã bắt đầu có một cái gì đó khang khác.

         Mở đầu của đêm đưa xe qua Long Đại, chiếc F.4 đã tặng chúng tôi một loạt bom tọa độ. Vừa nghe như có tiếng ì ì, những trái bom đã hú lên như những con thú đói khát. Chắc địch đã dự đoán, sau loạt bom tọa độ khá chính xác kia ít ra cũng có dăm ba chiếc xe cháy, vài trăm mét đường phải sửa chữa. Lập tức sau đó hai mươi phút, dường như một chiếc F.4 khác đã tới thay ca, thả đèn sáng trưng cả bến, hòng đánh chặn xe ùn tắc của ta ở các đầu con đường.

         Toàn rẽ canô 49 vào sát bờ. Cho đến lúc những cành ngụy trang cắm trên canô và những bụi cây ven sông hòa làm một thì dừng lại. Vào lúc đó, ở nhà nghe tiếng phản lực rền rĩ liên tục, Hiền ngồi trong hầm không yên tâm chút nào. Cô mắc màn, rồi lại dặn dò em học đúng 10 giờ mới được đi ngủ.

         –        Nhưng chị đi đâu?

         Đứa em vặn vẹo. Nó rất sợ lại phải ở nhà trong đêm một mình. Đôi mắt nó chứa đựng vẻ nghi ngại khi thấy người chị đã mặc áo dài vào người.

         –        Chị ra bến một chút chị về nghe.

         –        Hư… hư.

         Cậu bé rên lên như sắp khóc. Thấy vẻ mặt chị vẫn tạnh khô, nó chỉ dám theo ra đến cửa hầm rồi hậm hực quay lại.

         Hiền chạy như gió trên con đường làng Cát. Hiền đã hòa vào tổ chúng tôi làm một từ lúc nào không rõ. Niềm vui và nỗi buồn của chúng tôi cũng chính là của cô. Một loáng cô đã tìm được đông đủ tổ dân quân năm người của mình. Gặp ai cô cũng chỉ có một câu:

         –        Nó đánh ghê quá à. Phải ra chi viện đỡ cho các anh ấy.

         Chiến tranh nhân dân đã dạy cho các cô biết cắm một cái cọc để buộc đèn pha. Các cô đã cột đèn rất nhanh. Hiền rải dây đèn về tận căn hầm chữ A cách bến hai trăm mét. Tại đó, đã có sẵn một chiếc bình ắc quy và một cái đèn dầu mở nhỏ ngọn. Hiền cầm hai đầu dây điện trong tay run run. Chiếc đèn pha tại cửa bến nghi binh lóe sáng. Thời gian chỉ đủ đếm từ một đến mười, loạt bom đầu tiên đã giáng xuống bến phà giả.

         Toàn đang ép ca nô sát bờ sông chờ thời cơ vượt lên phà chính. Vừa nghe tiếng bom vùng bến cụt, Toàn đã hơi ngờ vực. Cậu ta nhẩy lên nóc ca nô nhìn về phía sau. Chớp bom loe lóe, sáng rực cả đêm tối. Những tiếng nổ làm vùng trời vụt sáng, có thể nhìn thấy rõ những lũy tre xanh, những gò đất, những mái nhà. Cứ thế, như dòng nước lũ dồn về đoạn đê vỡ, bao nhiêu bom đạn trong đêm đã trút hết xuống vùng bến cụt.

         Toàn lách canô khỏi bờ. Đêm miền trung mát lạnh. Những hạt nước li ti của dòng sông bắn lên mặt Toàn gợi một cảm giác dễ chịu. Canô của Toàn đến vị trí giấu phà sau tôi chừng ba chục phút. Chúng tôi buộc phà để canô đẩy khối sắt nặng chịch ấy ra khỏi bờ. Tôi nhảy lên mũi canô:

         –        Nó toàn đánh phía bến cụt thôi Toàn ạ.

         –        Nó đánh vào trận địa giả đấy.

         Hai chúng tôi đều im lặng. Toàn xoay tay lái cho canô đẩy phà chuyển hướng. Tiếng động cơ canô nặng nề âm vang mặt sóng. Tôi tin rằng Toàn cũng như tôi, tuy không nói ra miệng nhưng cả hai đều lo lắng cho Hiền. Nhất định Hiền có mặt trong cuộc đánh bom này.

*

         Mờ sáng, đưa chuyến ôtô cuối cùng qua sông, chúng tôi kéo phà giấu xong, hướng mũi canô về làng Cát. Tôi nhận ra vẻ mặt Toàn không vui. Cậu lặng lẽ cúi người lần từng đoạn tay lái. Từ chỗ giấu canô về đến nhà, ném áo giáp xuống bàn, Toàn vẫn lì xì như người bị mất cắp. Buổi sáng hôm đó, Toàn đã cáu kỉnh:

         –        Ai ra lệnh cho các cô bật đèn pha ở bến phà giả?

         –        Cái đó đã có trong kế hoạch tác chiến của huyện đội.

         –        Huyện đội là ai?

         Hiền đã chạm tự ái:

         –        Anh đừng hỏi như thế anh Toàn ạ. Cái gì có lợi, huyện đội mới cho phép làm. Anh cứ tưởng chúng em quấy rối các anh ấy.

         –        Không phải. Nhưng chưa đến lúc phải mạo hiểm như thế. Nó thả pháo sáng một lát không thấy gì nó phải đi. Tình hình như đêm qua là bình thường. Do các cô đánh động bến phà giả mà địch đã kéo dài trinh sát đến bốn tiếng đồng hồ. Tôi chưa kể đến việc có thể nguy hiểm đến tính mạng của các cô ở ngoài bãi.

         Hiền ngồi xuống ghế sụt sịt khóc. Cô đã thấy được cái non dại của mình. Tôi phải chạy ra can ngăn:

         –        Thôi thôi các cậu.

         Khi Hiền bật khóc, Toàn chợt thấy ân hận. Mắt cậu thoáng ngơ ngác nhìn quanh. Không biết dỗ Hiền thế nào, Toàn đành bỏ ra võng ôm đàn ghita bật bùng bùng. Cậu hát theo điệu nhại một bài hát khá hay:

         Em có yêu anh thật,

         Cho anh giật lấy hai trăm đồng

         Mua chiếc xe Phượng hoàng

         Về, hai đứa ta cùng đi.

         Cả tôi và Hiền đều phải bật cười với cái vẻ bất cần ngộ nghĩnh của Toàn. Hiền vừa lau nước mắt vừa phì cười hậm hực.

         Ngay buổi trưa hôm đó, một buổi trưa im lặng của làng Cát, của miền trung trong chiến tranh, nóng quá không ngủ được, ra sông rửa mặt, tôi đã nghe được câu chuyện của họ. Toàn ngồi trên nóc canô 49 hơi cúi đầu. Hiền ngồi trên thành canô thả chân dưới nước. Vẻ mặt Hiền hơi tái đầy xúc động. Toàn đang giảng giải:

         –        Anh hoàn toàn không muốn em có những việc làm như đêm hôm qua. Nhỡ ra có việc gì thì sao?

         –        Chúng em vẫn quen mà anh.

         –        Quen… Quen…

         Toàn dằn từng tiếng. Thái độ của cậu ta lúc đó thật mạnh mẽ.

         –        Anh không cho phép em làm như thế nữa vì anh yêu em.

         Tôi dừng chân lại. Tôi rất ngỡ ngàng trước những điều vừa nghe được. Toàn yêu Hiền ư? Sao lại nhanh chóng vậy? Hay đây chỉ là tình cảm hoa lá cho vui? Toàn lại lên tiếng như khẳng định:

         –        Anh cấm em nghe không?

         Cô gái im lặng.

         –        Thế em có yêu anh không?

         –        Dạ.

         Hiền cúi đầu đáp rất nhỏ. Tôi còn ngạc nhiên vì không có lẽ một chiến sĩ lái canô dũng cảm như Toàn lại ích kỷ, không muốn bạn mình xông pha vào chỗ hiểm nguy. Điều ngạc nhiên ấy của tôi như lời giải đúng của một bài toán hai với hai là sáu vậy. Tôi muốn được nghe thêm. Câu tuyên bố cuối cùng của Toàn như một lời răn đe, thách thức:

         –        Em đã làm việc đó cho các anh từ khi chúng ta chưa quen nhau. Còn bây giờ khi em đã yêu anh thì em không được tiếp diễn cái trò chơi nguy hiểm đó.

         Tôi trở lại con đường về nhà. Ôi sự đời tại sao lại như vậy? Tôi cốlý giải nhưng không được. Một người dũng cảm như Toàn vẫn có thể ích kỷ sao? Suốt ngày hôm đó, thái độ của tôi không làm sao tự nhiên được trước Toàn và Hiền. Còn riêng Hiền đã có nhiều khi cô đứng bần thần suy nghĩ. Tôi bắt gặp đôi lần Hiền lúng túng như đang cất giữ một cái gì vụng trộm.

         Khoảng một tháng sau, tổ canô của tôi đã được bố trí chuyển sang ở căn nhà bên cạnh. Ngay lúc bấy giờ tôi không thể hiểu được rằng, việc ấy không phải là ai khác, do Toàn bày đặt. Tôi lặng lẽ khuân đồ đạc. Chiếc canô vẫn giấu ở bụi tre sát vườn nhà Hiền. Tôi nghĩ, trước sau sẽ được biết lý do chúng tôi chuyển nhà. Nhưng chờ mãi, không ai nói với tôi một lời để giải đáp câu hỏi ấy.

         Tôi sang nhà bên, đôi lần Hiền sang chơi. Có những lúc buồn, tôi cũng sang thăm Hiền và đứa em nhỏ. Nhưng Hiền đối xử vối tôi không còn được thân tình như trước nữa. Những lời cô nói cứ úp mở một điều gì đó. Thái độ thì vội vàng, không còn thản nhiên và tự chủ. Tất cả những điều bí mật của Hiền tôi không làm sao biết được. Tôi coi đó là những mất mát của riêng mình.

*

         Chỉ sau đó ít lâu, Toàn đã chủ động tách khỏi quan hệ thân tình với tôi. Sự việc này khiến tôi rất buồn. Nhưng tôi nghĩ, sống trên đời có ai bắt ai yêu được ai? Tình cảm con người là cái gì đó thật tự nhiên, như mặt trời mọi buổi sớm, như dòng sông phải dồn nước chảy về biển cả.

         Chúng tôi chuyển sang ở gia đình bên cạnh thì Toàn bắt đầu thực hiện ý đồ riêng của cậu. Trước tiên cậu báo cáo tổ chức quan hệ giữa cậu và Hiền. Rồi không chính thức, như Toàn đã gần như về ăn ở hẳn trong nhà Hiền. Tôi nghĩ mọi việc sẽ êm đẹp tất cả nếu như sau này họ sẽ trở thành một gia đình hạnh phúc.

         Sau tất cả những sự thay đổi ấy, dường như Hiền vẫn chưa quen sống quy phục một người con trai. Bên cạnh công việc hợp tác, việc nhà, có những phần việc nuôi nấng chăm lo cho Toàn, đôi khi cô vẫn còn có ý muốn tham gia công việc của dân quân. Đã có lần cô bỏ nhà ra vị trí bến phà giả. Ngoài đó công việc vất vả, thậm chí nguy hiểm. Nhưng đích thực là cuộc sống hiện tại của lứa tuổi cô, của bè bạn. Cô muốn được ăn miếng cơm nắm bẻ đôi chấm vừng. Muốn ngủ được gác chân lên người bạn. Muốn được chập hai đầu dây điện cho pha đèn nhấp nháy nhử địch đổ bom xuống bến cụt. Sự hấp dẫn phần nhiều do phù hợp với tâm lý tuổi trẻ ấy đã khiến vài ba lần Hiền nhỡ hẹn với Toàn. Ví như cô bảo với Toàn chỉ đi vài tiếng, thì cô đi cả ngày. Hoặc cô bảo nửa đêm sẽ về thì cô đã quá trớn ngủ lại ngay trong căn hầm chữ A đầu bến phà giả. Riêng đối với tôi, Hiền áy náy trong lòng như một người có lỗi. Đã nhiều lúc tôi biết Hiền muôn nói chuyện, muốn thanh minh với tôi một điều gì đó. Và đúng hôm Toàn về lữ đoàn nhận phụ tùng canô, Hiền đã chạy sang tôi. Cô bước vào nhà, dáng điệu còn hốt hoảng như một kẻ vụng trộm. Khi đã ngồi thừ ra một lúc, Hiền nói:

         –        Anh Hùng ạ. Anh hiểu cho em. Em vẫn muốn có cả anh ở bên đấy. Có sao đâu phải không anh. Nhưng… em thật là khó nghĩ. Em thì lại yêu… như anh biết đấy. Ôi cuộc sống thật là khó anh ạ.

         –        Chẳng sao đâu Hiền ạ. Anh luôn luôn nghĩ rằng Hiền là một cô gái tốt.

         Cuộc nói chuyện ngắn ngủi và đầy vội vã của Hiền thông báo để tôi biết một điều: cái cô Hiền trong sáng dũng cảm đang khác đi rất nhiều. Chẳng bao lâu nữa, Hiền sẽ trở thành một cô gái chỉ còn biết quy phục người yêu.

         Một tuần sau, Toàn chủ động sang gặp tôi. Tôi trông thấy cậu đi con đường tắt qua khu vườn. Cậu nhìn khắp một lượt trước lúc bước vào nhà.

         –        Anh Hùng.

         Cậu vui vẻ reo lên. Tôi đứng dậy khỏi chiếc võng vắt chéo qua hầm.

         –        Ngồi chơi Toàn! Có ấm chè ngon người bạn trên lữ đoàn gửi cho đấy.

         –        Em cũng có dự định sang chơi và nói với anh một chuyện.

         Tôi pha nước và rót ra từng chén một. Có điều gì nhỉ? Tôi chợt nghĩ và thấy vẻ mặt đã lắng xuống của Toàn. Uống một hớp nước nhỏ xong, Toàn hắng giọng nói nhỏ:

         –        Anh Hùng ạ. Anh em mình ở với nhau kể cũng đã lâu. Hiểu biết thì chưa dám nói, nhưng cũng đã biết nhau nhiều. Sắp đến đây có thể em sẽ có những thay đổi. Mong anh đừng đánh giá gì.

         –        Thay đổi là thế nào? Cậu không lái canô 49 nữa?

         –        Không hẳn đã nhưthế anh ạ. Nhưng anh biết thằng Toàn này không hề sợ bom đạn.

         –        Cũng có thể là như vậy.

         –        Đi với anh cũng nhiều. Anh biết đấy. Như lần qua Bến Thủy của thành phố Vinh, anh em mình vượt qua bom đạn, cứu con đò chở đầy thanh niên xung phong.

         Tôi đã hơi ngờ ngợ điều sắp xảy ra ở Toàn. Cậu chỉ muốn tôi nhớ cho cậu một điều: vài năm lái canô 49, cậu đã không sợ chết. Cuối cùng tôi hỏi một cách dứt khoát:

         –        Bây giờ cậu cho tớ biết, sắp đến cậu có sự thay đổi là thay đổi cái gì nào?

         Toàn lúng túng thanh minh:

         –        Đó là nói trước thế thôi anh Hùng ạ. Cũng có khi không có thay đổi gì.

         Tôi hoàn toàn ngờ vực. Thái độ chẳng lấy gì làm rõ ràng của Toàn đã gây cho tôi một cảm giác xấu.

         Đã vào đầu mùa hè. Tiếng ve kêu râm ran khắp trong vườn. Những ngọn gió Lào thổi từ phía Tây Nam về những ngọn gió khô nóng như có hơi lửa. Giữa tháng đó, đám cưới của Toàn đã được tổ chức ngay trong những căn hầm chữ A của làng Cát. Một đám cưới thật vui vẻ, phù hợp với thời chiến. Bộ đội của lữ đoàn đổ về. Dân quân của hai bến phà giả, trận địa cao xạ tập trung đến. Trời vừa buông tối, lễ cưới bắt đầu khai mạc. Chú rể mặc quân phục. Cô dâu mặc áo trắng quần đen. Mấy năm qua lái canô 49 đưa những chuyến phà qua sông một cách dũng cảm, Toàn đã được các thủ trưởng lữ đoàn rất quan tâm. Tất cả chi phí chè thuốc, gạo thóc cho đám cưới, đều do hậu cần lữ đoàn đưa về ủng hộ. Kể từ ngày đó Hiền và Toàn trở thành vợ chồng.

         Hiền chăm chỉ và khéo léo, cô đã thu xếp được một buồng hạnh phúc nho nhỏ trong căn hầm chữ A chật hẹp ấy. Có bao nhiêu đồ đạc, cô dồn về căn hầm bên cạnh. Thằng em sẽ nằm tại đó, tiện thể trông coi luôn. Thành thử với không gian của một cái hầm, Hiền cũng đủ kê một chiếc giường đôi, đặt một cái tủ nhỏ, treo màn và buông riđô hoa. Một tháng qua đi, đôi trai gái ấy hoàn toàn thỏa mãn với cái hạnh phúc mà họ đã có. Đối với chúng tôi, Hiền rất chu đáo. Đối với chồng, Hiền càng săn sóc, chiều chuộng hơn. Hầu như những việc nấu ăn, giặt giũ, quét dọn hầm nhà, chăn lợn, Hiền đều vơ hết về cho mình. Toàn chỉ còn phải làm một công việc: chiều chiều sửa chữa canô, lái canô đi đẩy phà trong đêm. Tôi đã cố ý xem xét sự thay đổi mà Toàn đã tuyên bố là cái gì. Nhưng không. Ngày tháng qua đi chỉ có sự thay đổi tốt đẹp trong công việc hàng ngày mà thôi.

         Một hôm, ở trung đội phà, chúng tôi ngụy trang, chuẩn bị cáp, xà beng và súng ống đầy đủ. Xe ô tô hai đầu phà cũng đã dồn đến. Nhưng chờ mãi, tôi vẫn không thấy canô 49 có mặt. Tôi nhảy lên hầm chữ A ở đầu phà gọi điện về tổ trinh sát trực gần bến cụt. Vừa dứt lời câu hỏi, tổ trưởng tổ trinh sát đã báo: canô 49 bị thủy lôi. Hiện giờ Toàn đang bị thương rất nặng, phải đi cấp cứu.

         –        Bị ở quãng sông nào?

         Tôi hét lên trong máy nói.

         –        Ngang bến cụt.

         Tôi vội vã xin lữ đoàn chi viện canô gấp. Đêm nay sẽ có nhiều đoàn hành quân qua sông. Nếu tắc xe lại đây, tất cả sẽ bị nướng trong lửa bom hết. Sau đó, tôi ủy thác lại cho đồng chí trung đội phó chỉ huy phà qua sông, một mình tôi vội vã ven theo bờ sông trở về bến cụt. Hai mươi phút sau, tôi đã có mặt trong hầm trinh sát. Tôi hỏi một chiến sĩ đang trực tại đó.

         –        Canô 49 bị ở chỗ nào đồng chí?

         –        Ngang bến cụt.

         –        Đồng chí cho tôi biết cụ thể bị như thế nào?

         –        Thủy lôi bốc đuôi trái, thân canô bị lật nghiêng. Anh Toàn không bị mảnh nhưng hiện giờ không ngồi dậy được tức ngực.

         –        Tức ngực?

         –        Vâng.

         –        Có ho ra máu không?

         –        Tôi không rõ.

         –        Hiện giờ ở đâu?

         –        Dân quân đã đưa anh lên bệnh viện.

         Tôi theo chiến sĩ trinh sát về vị trí canô 49. Bước xuống canô, tôi tới ngay chỗ đặt máy. Tất cả còn nguyên. Tôi nổ máy, máy nổ giòn. Trong ngọn đèn mờ, tôi nhận ra nước bắn ướt sũng sàn canô và nóc cabin. Tôi vội chạy về làng Cát. Chắc chắn Hiền đã biết tin này. Dù sao tôi cũng cần động viên cô. Tới nhà, tôi chẳng thấy Hiền đâu cả. Đứa em trai báo tin chị đã đến bệnh viện với Toàn.

*

         Lữ đoàn tạm ra chỉ thị tôi lái canô 49 đưa phà Long Đại qua sông. Tôi chạy được mươi đêm thì Toàn rời viện trở về nhà. Cậu ta gặp tôi tại chỗ giấu canô cũ ngay đầu vườn nhà. Toàn chào tôi vẻ mặt vẫn im lìm bất động. Tôi không khỏi ngạc nhiên kêu lên:

         –        Sao cậu ra viện sớm thế? Người ta kết luận thế nào?

         –        Chấn thương vùng ngực.

         Tôi ngần ngại nhìn khắp cơ thể Toàn, vẻ mặt cậu âm thầm như đang toan tính điều gì. Bỗng nhiên ngay lúc ấy, tôi cảm nhận sự thay đổi nhanh chóng của Toàn trong nửa năm về đây. Ngày hành quân vào, qua bao nhiêu sông ngòi, có lúc ra cả biển, cái cậu Toàn trẻ trung, gan lì, thật hoạt bát và đáng yêu kia bây giờ không còn nữa. Tôi không tin rằng tình yêu với Hiền đã góp phần xô đẩy Toàn thay đổi. Cái anh chàng Toàn cởi mở ngày trước bây giờ đã mất. Cậu ta câm lặng đứng trước tôi, khó hiểu như một căn phòng đóng kín cửa, không thể biết bên trong có gì.

         Ngày ngày trôi đi. Tôi lại lái canô 49 qua sông. Biết bao nhiêu con người, biết bao nhiêu đoàn xe, tăng có, xích có, xe hơi có, pháo lớn, pháo nhỏ có, đã lần lượt qua con phà Long Đại. Cuộc sống sôi nổi và biến động từng ngày đã đem đến cho những người lính chúng tôi niềm vui và hạnh phúc. Chính những ngày đó, mặc dù chưa rời lữ đoàn, Toàn chủ yếu vẫn ở nhà với vợ. Tôi ít sang chơi với đôi bạn này. Hiền thì rất muốn tôi đến nhà, còn Toàn thì không. Cậu ta chưa hé răng mời tôi sang chơi lấy một lần. Tôi nghĩ, chắc Toàn không muốn tôi hiểu rõ gia đình cậu ta sống như thế nào. Tôi thì tôi biết: đã đôi lần tôi nhìn thấy Toàn chở ghe đi vớt cá chết bom trên sông Nhật Lệ rồi sai Hiền mang ra chợ bán. Đôi vợ chồng ấy nuôi được lợn, được gà. Toàn còn biết nghề đánh tôm. Thỉnh thoảng có đêm Toàn xuôi dòng Nhật Lệ, đến đoạn sông chảy qua mấy cánh đồng lúa thả lờ tôm. Cái gia đình bé nhỏ ấy dường như bây giờ chỉ quan tâm đến công việc làm ăn.

         Và một hôm, tôi vừa đưa canô buộc mũi tại bờ tre, ngước mặt lên, tôi đã thấy Hiền đứng trên bờ.

         –        Anh Hùng.

         Cô nói nhỏ.

         –        Em muốn gặp anh.

         Tôi nhìn lại vẻ mặt Hiền một lần nữa muốn đoán định chuyện gì đã xảy ra: Tôi theo Hiền về nhà chưa biết nên nói gì. Vào lúc ấy Toàn đi đánh tôm vẫn chưa về. Hiền lau bàn, rót ra cho tôi một cốc nước. Rồi cô ngồi im, vẻ mặt mệt mỏi.

         –        Anh Hùng ạ, em muốn hỏi thật anh xem lữ đoàn và bạn bè anh Toàn có nói gì về anh ấy không?

         Tôi nói thành thực:

         –        Cũng chẳng có gì mà nói đâu Hiền ạ. Trách Toàn được điều gì bây giờ.

         –        Anh Hùng ạ.

         Hiền hắng giọng. Cái phút ấy như cô đã lấy lại được sự tự chủ.

         –        Em thấy anh Toàn không bị thương đâu. Em nói thế này anh thông cảm cho. Là phụ nữ không ai là người muốn chồng mình vào chỗ hiểm nguy. Không ai muốn như thế anh ạ. Nhưng nếu chồng mình đào ngũ mà về thì cũng không thể được. Em thấy bứt rứt quá. Anh Toàn không lái canô 49 thì anh lái. Anh không lái thì người khác lái. Phải không anh?

         Tôi đã cảm thấy Hiền nói là có thật. Nhưng xét trên lý, Toàn không có gì khuyết điểm. Hiền lại nói nhỏ nhẹ, nhưng bứt rứt:

         –        Trước đây anh Toàn không cho em ra bến cụt, em tưởng anh lo cho em vì yêu em. Nhưng bây giờ anh ấy lại cũng viện lý do, thôi lái canô. Em rất sợ mọi người đánh giá.

         Phải thôi. Tôi nghĩ và thông cảm cho Hiền. Một cô gái chân chính bao giờ cũng muốn chồng mình là người tốt. Tôi muốn động viên, an ủi Hiền một câu nhưng không biết nói như thế nào cho phù hợp. Vẻ mặt trong sáng xưa kia của Hiền thoáng những nét lo âu và đau khổ.

         –        Nhưng kìa… chết chưa, anh thức suốt đêm, em còn kéo anh vào nói chuyện. Anh về nghỉ đi anh Hùng ạ. Đêm qua lái phà có vất vả không anh?

         –        Cũng thường thôi cô Hiền ạ.

         Hiền chợt nhận ra tôi vừa thức suốt đêm vội vã giục tôi để canô về nghỉ. Cái luẩn quẩn này của cô thật đáng yêu. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Hiền cho tôi một cảm giác dễ chịu. Thế mà tôi đã mơ hồ nghĩ rằng đôi trai gái ấy đã bỏ mặc chúng tôi, bỏ mặc tất cả mọi người, chỉ biết chăm lo cho đời sống của chính mình. Tôi đã thấy lại một cô Hiền vẫn sốt sắng và tốt bụng với người khác.

*

         Bắt đầu là sự bứt rứt. Sau đó Hiền thấy vợ chồng cô sống giữa làng Cát có một cái gì đó không ổn. Gặp bạn bè ngoài đường, cô không dám nhìn ai. Đêm, tiếng kẻng báo động râm ran, pháo ta bắn máy bay đỏ trời, và bom nổ rung chuyển mặt đất, tiếng người gọi đi chuyển hàng qua sông, bước chân các cô các cậu dân quân chạy thậm thịch trên đường làng duy chỉ có một đôi trai gái còn trẻ không ra khỏi hầm, đó là Toàn và Hiền. Một đêm diễn ra như vậy, rồi hai đêm, ba đêm.

         Rồi đến một đêm Hiền không chịu được nữa. Cô ngồi dậy, khoác áo che người, vặn to ngọn đèn lên. Khi đã mặc xong quần áo, búi gọn tóc, đi dép vào chân, cô mới vỗ nhẹ vào Toàn. Toàn cựa mình. Hiền ngồi xuống bên cạnh chồng như thuyết phục.

         –        Anh Toàn, anh cứ ngủ ở nhà nghe. Em ra bến cụt với chúng nó. Có việc gì cần làm thì em làm. Xong việc em về.

Toàn ngồi bật dậy. Cậu ta vặn ngọn đèn thật to:

         –        Vào giờ này cô còn đi đâu?

         –        Anh ạ. Em ra bến cụt một lát em về. Bằng tuổi em, có chồng có con, đứa chưa có gì cũng tham gia công việc. Nằm ở nhà em thấy khó nghĩ quá. Một mình anh ở nhà là đủ rồi.

         –        Cách mạng mà cô cứ nghĩ như một thứ đóng góp ấy.

         –        Đúng như thế anh ạ. Em thấy mình không đi không phải.

         –        Tôi không cho cô đi đâu.

         –        Em phải đi anh ạ.

         –        Không đi.

         –        Em phải đi anh ạ.

         Toàn bật dậy trông thật dữ tợn. Hiền đã ứa nước mắt sẽ đi, mặc cho anh có tát cho cô một cái. Cô đứng nép vách hầm, có ý chờ đợi.

         Giây phút ấy tưởng như kéo dài vô tận. Không chịu đựng được nữa. Hiền nhìn thẳng vào mắt Toàn. Người cô run từng đợt. Cô nhắc lại nhưng chính cô cũng không biết mình đang nói gì nữa.

         –        Em phải đi anh ạ.

         Nhưng Toàn lại hạ giọng như thách thức:

         –        Cô thích ra đó lắm phải không?

         Câu hỏi của Toàn làm Hiền chợt tỉnh. Cô tự chủ trong lời nói của mình hơn.

         –        Em không thích anh ạ. Chẳng ai thích gì đêm hôm lại phải ra chỗ có bom có đạn. Nhưng cả làng Cát đi, chẳng lẽ em không đi.

         –        Cô không biết thương đứa con của chúng ta sao?

         –        Không! Anh!

         Hiền ôm choàng lấy Toàn, nước mắt dàn dụa.

         –        Em yêu anh và em thương con lắm, anh đừng nghĩ như thế mà oan cho em. Nhưng em phải đi anh ạ. Lương tâm bảo em như vậy. Làng Cát chỉ còn bà già và trẻ con ngủ trong hầm thôi. Em không muốn mọi người coi thường chúng ta.

         Hiền nói xong, cô đi mấy bước ra cửa hầm. Trăng sáng. Những bờ tre làng Cát xì xào câu chuyện muôn thuở. Hiền quay lại nhìn chồng. Lúc bấy giờ Hiền biết, Toàn có cố giữ cô, cô vẫn đi. Việc đó đã được cô quyết định, không thể thay đổi. Nhưng Toàn vẫn đứng bất động nhìn cô. Hiền đi mấy bước ra ngõ. Tai cô như đang nghe được mọi thứ tiếng động của chung quanh và những hồi âm thật xa xăm của cuộc đời vọng lại. Cô không thể biết rằng đó là đêm cuối cùng của cuộc đời cô. Sau khi bến phà cụt bật pha đèn, một khối lượng bom khổng lồ đã trút vào cả khu vực bến cụt. Cả một sư đoàn được cứu thoát, chỉ có hai nữ chiến sĩ dân quân bị thương rất nặng, trong đó có Hiền. Cũng trong cái đêm nhập nhòa ánh pháo, chớp bom ấy, Toàn chạy ra với vợ. Mọi người đã đưa Hiền về ngôi nhà nhỏ đầu làng. Hiền mở mắt thấy Toàn. Cậu ta cúi sát bên mặt vợ. Cô đã khóc. Cô nói lại điều cô đã nói:

         –        Em phải đi anh ạ. Em vẫn đúng. Có điều, đừng trách em nghe anh. Em phải đi. Lương tâm bảo em như vậy. Anh đừng buồn nhé.

         Người con gái ấy của dòng sông Nhật Lệ đã vĩnh biệt chúng ta.

*

         Chỉ một tuần sau, Toàn đã tự giác đề nghị lữ đoàn trở về với canô 49. Toàn là chủ nhân của chiếc canô cũ kỹ móp mép này thêm một năm nữa. Một năm Toàn ở với cậu em trai của Hiền trong làng Cát. Một năm với hàng trăm sự tích có thể kể thành chuyện. Đã nhiều lần Toàn nói với tôi:

         –        Tôi muốn được sống mãi trên con sông này anh Hùng ạ. Kể cả sau này nữa, nếu có lấy vợ, tôi cũng sẽ sinh sống ở làng Cát.

         Tôi hoàn toàn không ngờ rằng sau ngày Hiền hy sinh, Toàn lại vẫn yêu Hiền, có phần đằm thắm hơn xưa. Cậu ta như chỉ còn sống bằng kỷ niệm. Đêm đêm lái phà đi, trong ánh trăng, hoặc trong chớp bom, con người bằng xương bằng thịt của cậu trên canô, một tay đặt lên vành lái, mũi canô rẽ sóng ào ạt, nhưng phần hồn thì cậu ta cất ở đâu đó trong không gian đẫm ánh trăng vàng. Có đêm, canô đang mải miết chạy thì Toàn buột miệng nói:

         –        Giá như cô ấy còn sống?

         –        Ai?

         –        Hiền ấy mà.

         Và có một lần, mặc dù đã có tín hiệu vùng sông bom từ trường chưa phá hết, trong mơ màng, suýt nữa Toàn đã lao canô vào.

         Tháng 9 năm 1972 Toàn đã mãi mãi ở lại với dòng sông Nhật Lệ. Một trái rốc két đã bắn trúng đuôi chiếc canô anh hùng đó. Toàn bị nặng hơn, còn tôi, chỉ bị lửa xạm vùng mặt và một mảnh rốc két cắm vào mông. Ngày nay, ai đến lữ đoàn 349 công binh, hay vào làng Cát cũng sẽ được nghe mọi người kể về Toàn và Hiền – những người đã đưa chúng ta, một phần cuộc kháng chiến chông Mỹ cứu nước qua sông, cũng như kể chuyện về bến cụt hay phà Long Đại. Những câu chuyện đã thuộc về muôn thuở.

KHÔNG GIAN CHIẾN TRANH

         Tôi không có ý định tìm kiếm lại bạn bè sau những năm chiến tranh. Ngày nay, không một ai lại có đủ điều kiện để thực hiện cái điều viển vông đó. Nhưng vừa rồi, nghề làm báo đã đưa tôi đến một miền của tỉnh N. Tôi vốn có định kiến với đất đai và khí hậu vùng này. Có gì đâu, liên tiếp là đồi trọc bỏ hoang và những triền núi đá khô khốc dường như không có sự sống. Nhưng hôm ấy, vừa bước khỏi chiếc xe con bịt bạt tù mù, tôi như đang được đứng ở một thế giới khác lạ. Buổi sáng, ra đi, trời Hà Nội có mưa và se lạnh. Ngay phút đầu tiên đặt chân xuống vùng này, tôi đã phải bỡ ngỡ trước bầu trời cao xanh, khô ráo và ánh nắng vàng rực rỡ. Cái thứ nắng mới đầy háo hức và ấm áp. Lại một lần nữa tôi ngạc nhiên. Không ngờ tỉnh N. lại có một nơi đồi núi, ruộng đồng tươi xanh và cảnh vật phóng khoáng như vậy. Dãy nhà được dựng trên vùng đồi cao, nhìn xuống là cánh đồng mênh mông, xa hơn là con sông, xa tít tắp phía chân trời một vệt dài xanh mờ, dường như đó là dãy Trường Sơn. Vẻ đẹp tôi cảm nhận được lúc đó cũng mang đầy tính hòa sắc. Nắng thì vàng, nhà cửa, tường vôi trắng xoá, mặt đồi rộng màu đỏ thẫm như đất cao nguyên. Tất cả như được bê đặt vào cái nền xanh ngắt của thảm thiên nhiên, cỏ cây và lúa.

         Tôi và anh bạn đi cùng rảo chân xem khắp lượt cảnh vật. Chúng tôi dừng lại trước dãy nhà được xây cất cho khu gia đình. Tại đây, những chiếc dây phơi cong xuống nặng trĩu quần áo.

         Trong vườn, những bụi mía mập mạp, những cây chước to béo như muốn khoe độ phì nhiêu và sức sống mãnh liệt của vùng đất đỏ. Chỗ chúng tôi dừng lại sau cùng là cửa hàng bách hoá của nông trường. Đó là ngôi nhà cũ ba gian, nhưng do được quét vôi nên trông vẫn thấy mới mẻ. Vị trí này đông người hơn cả. Người lớn và trẻ con, người mua hàng và người không mua hàng, ai cũng muốn ngó xem có thứ gì mới không Chúng tôi bước vào nhà. Có hai cô gái đang ướm thử chiếc áo vừa cười vừa thì thào trao đổi:

         –        Cho em đổi một chiếc khác chị ạ – Một trong hai cô nói.

         –        Thế các cô có mua không mà đổi đến lần thứ ba rồi đấy.

         –        Có chứ ạ.

         Tôi nhìn người phụ nữ. Mãi lúc này tôi mới ngước nhìn chị. Và chẳng lâu la gì, tôi nhận ra ngay chị là cô y sĩ của tiểu đoàn tôi cách đây hơn mười năm. Người con gái này vẫn không khác đi nhiều lắm. Trời phú cho cô nước da trắng trẻo, hơn mười năm đi qua, làn da vẫn trắng và vẻ mặt vẫn đầy đặn. Dáng người của cô vẫn cân đối, ngực vẫn gọn gàng như chưa một lần sinh nở. Tôi chỉ nhận ra cô khác trước một chú ở chỗ hình như cô ít cười, mặt đượm một vẻ nghiêm trang. Đó là dấu hiệu đứng đắn do tuổi tác mang lại.

         Tôi gọi cô:

         –        Cô Tình ơi… có phải Tình không?

         Người phụ nữ nhìn tôi, ánh mắt vẫn thản nhiên như nhìn khách hàng của mình. Một lát sau đôi mắt ấy như chợt sáng loé lên. Cô reo lên một tiếng rồi mặt bỗng tái ngắt.

         Năm tháng qua đi quá nhanh. Chính tôi cũng đã quên rằng vùng nông trường đẹp trên cao nguyên này lại là quê hương của Tình. Tôi chưa quên cô. Có thể nói cô là toàn bộ cái thời tuổi trẻ của tôi. Cái tuổi vừa bước vào mười tám, đôi mười, bắt đầu biết nhận ra vẻ đẹp của những cô gái thì lại phải dồn cục lại thành hàng chục tiểu đoàn sống trong rừng núi, sống ở chiến trường. Tôi và hàng trăm đồng đội của tôi, trong nhiều năm chỉ được tiếp xúc với bảy cô gái phục vụ tại đơn vị. Trong cái thế giới thật hạn hẹp ấy, Tình trở thành người đẹp, nhân vật trung tâm, và thành một cái gì đó lớn lao hơn thế rất nhiều. Không thiếu gì các chàng trai chúng tôi đã thầm yêu Tình, viết thư, gặp mặt, tặng quà. Tất nhiên loại người nhút nhát như tôi, cũng chỉ dám ôm ấp một tình cảm trìu mến, mãi mãi không được nói ra khỏi miệng, viết ra thành chữ.

         Ít nhất cũng được hai năm như thế, hai năm Tình không thuộc về ai. Và các câu chuyện chúng tôi kể cho nhau nghe, sau một chuyến ô tô vượt trọng điểm đưa hàng tới mặt trận trở về thường một nửa phải liên quan tới bà chúa rừng ấy. Và thật diễm phúc cho ai, trong chuyến hàng đi vào, được cô gái đẹp nhất cung đường ấy đi “hộ tống” lại ngồi trên xe của mình.

         Cuối năm bảy hai, đến lượt tôi có được cái may ấy. Tiểu đoàn phân công Tình đi công tác với đại đội xe của tôi. Đồng chí đại đội trưởng tính đi tỉnh lại, cuối cùng xe tôi được chở Tình đi suốt dọc đường. Sở dĩ anh cắt cử như vậy bởi trong ba chục chiếc ô tô tải, cái Jin củạ tôi đã mát máy lại còn nguyên kính chắn gió.

         Tình thật hay cười. Mỗi một lúc nhoẻn miệng cười, gương mặt cô sáng bừng lên. Lạ thay, nụ cười của cô thay cho mọi lời chào hỏi. Chuẩn bị lên đường, Tình đèo túi thuốc, đội mũ sắt đi ra bãi xe. Cô vừa đi vừa nhìn biển số của từng chiếc ô tô một, đến trước đầu xe của tôi, cô dừng lại. Thấy tôi quay nhìn chưa kịp hỏi, cô đã cười.

         –        Tình lên xe đi!

         Tôi mời. Cô gái bước lên ca bin, đặt túi thuốc, khẽ lấy cành lá phẩy đệm ngồi, thoáng nhăn mặt:

         –        Chao ôi, xe của anh hôi qua. Toàn mùi nước điếu.

         Tôi đỏ mặt. Biết có Tình trên xe, suốt buổi sáng tôi đã phải lau chùi ca bin nhưng vẫn quên gửi chiếc điếu cày sang xe khác. Lúc ấy tôi nghĩ: có vứt điếu cày đi chăng nữa, khói thuốc lào và nước điếu bao nhiêu ngày vẫn ám chặt vào ca bin rồi. Tôi im lặng nổ máy và đưa xe ra cửa bãi, chuẩn bị xuất phát.

         Đêm phủ xuống những cánh rừng của mặt trận. Vừa ra đến đường lớn, tôi tăng tốc. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã thấy thấp thoáng chiếc xe trước như đang bơi trong dòng sông bụi. Tôi ghìm bớt tốc độ, cho đến lúc chỉ còn nghe tiếng dây xích cửa của chiếc ô tô chạy trước đập loảng xoảng xa xa.

         Tôi đã lấy lại được tự chủ. Tôi nghĩ như thế bởi tôi đã nói chuyện với Tình không những lưu loát mà còn biết nói như thế nào cho khỏi vô duyên. Vào đúng cái lúc câu chuyện đang đà thân mật, thì có tiếng máy bay ào qua đầu. Tiếng động cơ gầm rất mạnh, tôi biết chiếc máy bay xà thấp.

         Chỉ tích tắc sau đó, một chùm đèn dù ba chiếc bật sáng. Đúng ra thì ngay lập tức, tôi phải rẽ xe vào rừng tìm lấy một con đường tránh. Tôi cũng thoáng nghĩ đến điều đó, điều mà trăm nghìn thằng lái xe cũng như thủ trưởng các đơn vị đã chọn là cách xử lý tối ưu. Và chỉ có làm theo cách đó, xe, cũng như người, và hàng hoá mới có cơ hội an toàn.

         Tôi đã không xử trí như thế. Chỉ có ma quỷ mới có thể hiểu tại sao lúc đó tôi lại làm như vậy. Tôi đẩy cần số vào tốc độ cao nhất rồi tăng ga đột ngột. Thấy tôi làm động tác đó, Tình chọn tư thế ngồi và bám thật chắc vào tay cốp. Cô thoáng nhìn tôi như muốn xem xét thái độ và nét mặt của tôi lúc đó. Tôi tỏ ra hết sức tự chủ. Khéo không thì văng ra ngoài đấy nhé!

         Chiếc ô tô của tôi lúc đó đã ở tốc độ đáng sợ. Tôi lượn vào đường vòng, rồi lấy đà vượt đỉnh dốc. Tôi đi tốc độ số năm đến đỉnh đèo, tiếng máy mới có vẻ đuối sức, tôi vội đưa cần sốtắt về số ba, chiếc ô tô lại ào vượt lên. Trên con đường xuống dốc, tôi cho xe chạy tốc độ cao, chưa bao giờ tôi chạy xe nhanh như vậy. Tất nhiên chiếc phản lực Mỹ có trang bị khí tài hiện đại, lại có một tốc độ linh hoạt, chẳng chịu thua chiếc ô tô đang bò dưới mặt đất. Dọc con đường tuyến và theo vệt bụi trắng xóa, chiếc phản lực đuổi theo đến kiệt cùng. Thành thử tôi tới đâu, pháo sáng từ máy bay thả vung theo đó. Tôi đoán sở dĩ khi đó chiếc phản lực vẫn chưa quyết định tặng tôi một tràng rốc két bởi tên phi công muốn đùa giỡn với tôi trước lúc nướng chiếc xe trong độ nóng hàng nghìn độ của lửa hỏa tiễn. Càng chạy, càng không thấy xe trước, tôi biết họ đã tìm đường tránh vào chân núi.

         Tôi nhận ra mình rất bình tĩnh. Còn Tình, cô hoàn toàn im lặng, phụ thuộc vào tôi. Tôi rất muôn tách xe khỏi con đường lớn trống trải và bụi bặm này, nhưng sợ làm điều đó trước mặt Tình, cô lại sẽ coi tôi là một thằng hèn nhát.

         Đến lúc xuống đoạn dốc gần như thẳng đứng, chiếc xe như bay trong không gian. Với cảm giác của người cầm vô lăng, tôi biết, đã có nhiều lúc, lốp xe không còn bám vào mặt đất. Tôi ngước nhìn Tình. Lúc này cô đã hoảng sợ. Hai tay bám cửa rất chắc, mặt như được làm bằng sáp ong. Cho đến lúc qua đoạn cua tay áo quen thuộc, theo đà ly tâm, xe của tôi đã bay khỏi tim đường ít nhất hơn chục mét. Tôi ném xe khỏi đường, còn chiếc phản lực lại lầm tưởng tôi vẫn chạy, thả đón pháo sáng ở phía trước. Tôi bị xe dằn ngất đi trong ca bin, còn Tình đã bị ném ra bãi cỏ vào lúc nào không rõ.

*

         Sau vụ đó, tôi không những không bị kỷ luật mà còn được mọi người cho qua. Ai cũng an ủi tôi: chiến trường như vậy thường. Nhưng với tôi, qua sự kiện xe đổ ấy mới có dịp để tôi thấy mình kém cỏi. Tại sao tôi lại có thể sĩ diện một cách ấutrĩ như vậy? Nếu tôi có khả năng được bà chúa rừng ấy để mắt tới thì cứ gì tôi phải tỏ ra dũng cảm dở hơi để rồi đua tốc độ với phản lực đến nỗi đổ kềnh xe ra rừng? May sao tôi cũng như Tình chỉ bị giáng một đòn nhừ tử mà không hề gãy xương giập đầu. Những ngày đầu, tuần đầu, trông thấy mặt tôi, Tình cố ý lảng tránh. Cô ghét tôi vì đã cho cô một vố suýt chết. May thay thời gian đi qua, kéo theo cả nỗi bực mình ấy của Tình. Gặp tôi cô đã cười. Còn tôi, tự thừa nhận là kẻ đã ngã ngựa trong cuộc đua vô tình đến với tình yêu ấy. Tôi hoàn toàn không xứng đáng là loại người để cho Tình chọn làm đối tượng.

         Đó là những ngày tôi bắt đầu nghe được tin lõm bõm ởđâu đó, rằng tiểu đoàn trưởng Oanh đang có ý muốn tấn công cô Tình. Nhưng sự đời oái oăm và rắc rối lại không thuận buồm xuôi gió như vậy. Cái anh chàng người Hà Nội vừa đẹp trai, lại vừa có quyền đó nghe đâu không lọt mắt bà chúa rừng của chúng tôi. Nếu sự việc đã diễn ra đúng như lời đồn đại thì Oanh đã từng gặp riêng Tình nhiều đêm ở nhà, cũng như theo xe đi chỉ huy trên đường với đơn vị, nhưng không ăn thua. Và có một phút nào đó do bốc lên, Oanh đã từng hứa, nếu nhận lời yêu anh ta, cô có thể sẽ được vào Đảng, được đi học thêm đại học và được ra miền Bắc. Theo lời kể lúc đó, Tình đã đứng hẳn dậy. Mặt cô đỏ lên và thoáng một nét bất bình, cô đã nói với Oanh một câu sâu cay kiểu phụ nữ:

         –        Tôi không tin rằng những lời vừa rồi là của anh, một người chỉ huy.

         Khuôn mặt thanh nhỏ của cái nhìn đầy ẩn ý của Oanh trơ ra trong một giây lát. Sự phản ứng của cô gái tuy không mạnh, không làm cho Oanh phải xấu hổ, nhưng anh đã bị cô từ chối một cách thẳng thắn. Không ai có thể đoán biết được trong bộ óc tinh khôn và từng trải kia sự căm tức đã diễn ra như thế nào.

         Đối với chúng tôi, Oanh luôn luôn là một tiểu đoàn trưởng ít lời, tế nhị và dứt khoát. Anh có dáng người nhỏ, trắng trẻo, mặt tròn như một thư sinh. Không ai có thể ngỡ được người tiểu đoàn trưởng ấy lại đã từng đi từ cấp binh nhì lái xe leo lên đến chức đại úy tiểu đoàn trưởng. Ở đơn vị tôi, anh khét tiếng là con người gan góc và độc đoán.

         Điều đó hơi ngược với vẻ mặt trẻ trung, sáng sủa của Oanh. Đơn vị tôi không ai biết năm đó Oanh đã qua tuổi ba mươi tư. Mọi người đều nghĩ tiểu đoàn trưởng của mình chắc là dưới ba mươi gì đó. Cuộc đời, chuyện riêng tư của Oanh, như được cất giấu trong một căn phòng luôn luôn đóng kín cửa, chẳng ai có tài gì mở được. Và hàng ngày chúng tôi chỉ được tiếp xúc với Oanh qua điều hành công việc. Tóm lại, anh là một người chỉ huy có tài, giỏi về kỹ thuật, một tay lái cừ, một con người tinh nhanh đến mức không một chiến sĩ nào dám dối trá, luôn có một thái độ nhã nhặn nhưng vô cùng dứt khoát.

         Buồn thay chỉ sau cuộc nói chuyện thẳng thừng giữa Oanh và Tình được một tuần, thì một cái tin mới bùng ra. Tình không yêu Oanh mà lại yêu cậu Tuấn, người trong tiểu đội tôi. Đôi trai gái ấy đến với nhau thật bí mật, chưa ai bắt gặp họ đi chơi ngoài rừng. Vả chăng mỗi lần Tình có việc đi phát thuốc, tiêm phòng, ngồi giữa đám đông, nụ cười duyên dáng của cô có dành cho riêng một ai đâu? Chẳng bao lâu cả tiểu đoàn đều biết đến mối tình độc đắc đó.

         Mọi người có vẻ ngần ngại thay cho họ, không ai trong chúng tôi mà không nghĩ: Oanh có dùng quyền hành gì can thiệp vào cái tổ chim đang được hình thành đó không? Chúng tôi chăm chú theo dõi diễn biến từng ngày xảy ra trong tiểu đoàn. Mọi người đều nhận ra: tiểu đoàn trưởng Oanh gầy rộc đi. Ánh mắt của anh như lùi thật sâu vào trong. Anh vẫn sống lẳng lặng, lúc nào rỗi rãi, lại nằm trên giường ghé sát tai vào chiếc ra-đi-ô nghe tin tức.

*

         Cuối năm đó, có khá nhiều sự kiện phân tán anh em chúng tôi. Ba đợt B.52 giáng trúng cánh rừng đơn vị đóng quân. May thay, cả bãi xe chỉ còn lại năm chiếc hư hỏng, không thể chạy trên con đường bốc cháy. Số xe tốt và phần đông chiến sĩ lái xe đi trên đường. Dãy nhà lợp giấy dầu chỉ phút chốc đã tan thành tro bụi.

         Đúng góc kê giường của tiểu đoàn trưởng Oanh là hố một quả bom tấn vừa rộng vừa sâu hoắm. Căn nhà nhỏ, xinh xắn bằng nứa của Tình và các cô gái phục vụ, bị hơi bom bê gọn đặt giữa lòng suối. Toàn bộ mặt rừng nơi đơn vị đóng quân, khi chúng tôi trở về, ngổn ngang, tan nát; nhiều đoạn gỗ cháy dở bốc khói nghi ngút. Hai chiến sĩ thợ và ba lái xe hy sinh tại chỗ.

         Vừa làm cuộc chuyển chỗ ở, chúng tôi vừa phải chạy hàng kế hoạch. Mọi người đều vất vả và như quên bẵng đi mối tình của Tuấn và Tình. Cánh rừng mới đến rậm rạp và âm u hơn cánh rừng vừa bị bom đánh. Chúng tôi vừa đào hầm, lợp nhà, vừa sửa chữa xe cộ, lấy xăng dầu lên đường. Khoảng hai tháng ăn dưới đất, ngủ trên thùng xe, toàn tiểu đoàn lại có nhà kho, nhà bếp, hội trường. Một cái xóm nhỏ đã được hình thành giữa bạt ngàn rừng núi. Những bếp lửa hồng làm ấm áp đêm ở rừng. Tiếng gà gáy báo sáng, dây phơi dưới đám lá sặc sỡ những cánh áo hoa con gái, gợi lên những tình cảm gần gũi, ấm cúng. Thời gian đã làm cho chúng tôi bén hơi với chỗ ở mới. Tình yêu của Tuấn và bà chúa rừng tưởng như bị lãng quên, ai ngờ vẫn tiếp tục cái mạch ngầm của nó. Hôm ấy, quãng chín giờ tối, đại đội trưởng của chúng tôi rúc còi báo động. Mọi người đang nằm nghỉ trong nhà hầm nhỏm cả dậy. Có anh kêu lên:

         –        Quái lạ. Việc gì mà báo động nhỉ? Lâu lắm hôm nay mới thấy báo động.

         Người chiến sĩ lái nói chưa dứt câu đã nghe bước chân chạy riết róng của đồng chí đại đội trưởng. Anh loe đèn pin vào nhà hầm giục:

         –        Chóng lên các cậu. Chóng lên đi… !

         Nhiều người cùng một lúc chen vai nhau đi ra ngách nhà hầm. Có tiếng thì thào:

         –        Hay lại có lệnh di chuyển gấp, địch sắp đánh B.52 chăng?

         –        Có khi cậu nào lại xuống kho đánh cắp lương khô tiểu đoàn bắt được cũng nên. Tiểu đội ta có thiếu ai không nhỉ?

         –        Không! Đủ cả.

         Chúng tôi vừa chạy, vừa thở, vừa rì rầm bán tán. Bãi tiểu đoàn dùng để tập trung quân lúc đó khá đông người. Họ cũng vừa chạy ra vị trí báo động. Những cán bộ chỉ huy, trong bóng tối của rừng, đứng im phắc. Hẳn có một sự việc gì đó trang nghiêm và quan trọng?

         Đại đội trưởng đại đội 6, sĩ quan trực ban, hô khẩu lệnh rất to:

         –        Đại đội hàng ngang, tiểu đoàn hàng dọc, thành chín hàng dọc, tập hợp!

         Tôi chợt nhận ra là đã khá lâu, từ ngày còn là một tân binh mới toe, đến nay mới có dịp được nghe lại một câu khẩu lệnh dõng dạc trang nghiêm và đầy đủ bài bản như vậy.

         Sĩ quan trực ban chỉnh hàng quân xong, tuyên bố lý do kiểm tra quân số đột xuất. Chẳng là về chỗ ở mới này chiến sỹ chúng tôi hay bỏ đơn vị, đi tắt rừng vào một bản Lào cách đó ba cây số để chơi bời, đổi chác. Tiểu đoàn trưởng đã lệnh cấm nhưng vẫn có người mắc màn xong buông xuống như có người đang ngủ rồi bỏ đi. Oanh bấm chiếc đèn pin chỉ để hở một vệt sáng nhỏ. Anh hơi tái mặt và trông thật nghiêm khắc, lạnh lẽo. Anh đi hết hàng quân, soi vào từng khuôn mặt, chăm chú xem xét. Vào đúng cái thời điểm ấy một người như chạy từ xa về, luồn dưới hàng quân, ẩy vai tôi đứng vào giữa. Đêm sáng mờ mờ, ống quần ướt của anh ta sát vào nhau kêu ràn rạt. Cho đến lúc tiểu đoàn trưởng soi đèn đến chỗ tôi, mới biết anh chàng ấy là Tuấn!

         Khoảng mười phút sau tiểu đoàn trưởng Oanh trở lại vị trí của mình. Anh soi đèn vào sổ tay hỏi:

         –        Đại đội ba: đồng chí Trung thợ đi đâu?

         Tiếng báo cáo to gấp ba lần tiếng hỏi:

         –        Báo cáo, đồng chí Trung thợ đang đi cấp cứu xe bị đánh hỏng tại cây số mười.

         Oanh lại dí đèn pin vào sổ tay:

         –        Đại đội bốn: đồng chí Thảo đi đâu vắng?

         Tiếng báo cáo lại vẫn to và dõng dạc hơn tiếng hỏi:

         –        Báo cáo, đồng chí Thảo đi bệnh xá.

         Chiếc đèn pin trong tay Oanh lại soi tìm trong sổ.

         –        Tiểu đội phục vụ, đồng chí Tình đâu?

         Có tiếng ấp úng:

         –        Báo cáo… đồng chí Tình bị ốm ạ.

         –        Có thật vậy không?

         Tiểu đội phục vụ im lặng, không ai dám lên tiếng.

         Giọng tiểu đoàn trưởng vẫn nghiêm ngặt, thản nhiên:

         –        Tiểu đội phục vụ cử người về mời đồng chí Tình ra đây.

         Có tiếng xì xào nhỏ. Người tiểu đoàn trưởng tinh tế ấy ngẩng đầu lên như muốn nghe xem tiếng xì xào nói gì. Anh vừa ngước mặt, đoàn quân lại im phăng phắc không một tiếng động. Lúc này, một quân nhân nữ đã chạy về nhà trở ra nói to:

         –        Báo cáo tiểu đoàn, đồng chí Tình ốm thật ạ!

*

         Tiếp theo đó là những ngày thử thách ác liệt nhất của chúng tôi. Hầu như không một ngày đêm nào ra đi mà không bị F.4 hoặc AC 130 đuổi bắn hay ném bom. Đối với chúng tôi, như vậy là một thời êm đềm được ăn, được ngủ, được vui chơi đã qua đi. Mỗi một ngày, cung đường lại thêm vài trọng điểm. Đã có hôm gần sáng, máy bay còn đuổi theo một chiếc xe của đơn vị từ ngoài đường tuyến vào tận cửa bãi giấu. Loạt 40 li nổ cắc đùng ngay sau dãy nhà ở, làm ai cũng lo ngại. Những con người trong tiểu đội, trụng đội, đại đội và tiểu đoàn cũng đã có phần bị xáo trộn. Chỉ trong vòng một mùa khô, lính cũ phải thay đổi một nửa. Trong số người phải thay ấy có đồng chí hy sinh, có đồng chí bị thương buộc phải rời đội ngũ. Anh chàng Tuấn ngang tàng có diễm phúc được bà chúa rừng yêu thương đã trở thành một tay lái cừ khôi của đơn vị.

         Nếu như trước đó nửa năm, Tuấn cao, mảnh dẻ và trắng như con gái, thì bây giờ cậu ta như lớn thêm ra: Vóc người trở nên to lớn và hai má mờ mờ hình thành vệt đen của râu quai nón.

         Ở Tuấn, tính tự chủ đã khá hơn, nhưng tính liều lĩnh cũng phát triển không kém. Có một hôm, tôi đang đi ngẩn ngơ giữa bãi xe, Tuấn chạy ra kéo tôi lại nói vội vã:

         –        Tớ có một việc cần bán với Tình. Cậu đứng đây trông chừng cho một tý nhé. Nếu đại đội hoặc tiểu đoàn có đi qua, cậu báo cho một tiếng.

         Bất giác tôi quay lại nhìn vào đầu xe của Tuấn. Vừa lúc ấy, tôi thấy Tình ló đầu qua cửa xe nhìn về phía sau. Ánh đèn mờ trong buồng lái soi rõ vẻ mặt cô bơ phờ, tóc rối và hai mắt đỏ lên như khóc. Tuy gặp cái nhìn của tôi, cô vẫn không có ý dấu diếm điều gì. Có gì đang diễn ra với họ? Tôi ngạc nhiên nhìn Tình.

         Tôi bồn chồn đi lại. Chúng tôi, ai cũng quan tâm đến Tình. Nếu có điều gì thật xấu xảy ra với Tình thì chính trái tim tôi cũng bị tổn thương. Họ đang thì thào điều gì? Bước chân tôi không ai xui khiến vẫn cứ đi đi lại lại nhích gần về phía đầu xe. Ánh sáng mờ nhạt do điện ắc quy cung cấp trong gầm ca-bin, vụt tắt. Những tiếng thì thào vẫn không hề bị đứt quãng.

         Chàng trai:

         –        Em đừng lo. Với lại có điều gì là đáng sợ?

         Cô gái.

         –        Không anh ạ. Anh nghĩ như thế là chưa đúng.

         Tim tôi đập rộn lên trong lồng ngực. Rất có thể một chuyện đau buồn đáng lo ngại đã xảy ra với Tình. Cố gắng lắm tôi mới bước dịch ra khỏi đầu xe được vài bước ngắn. Lại tiếng chàng trai quả quyết:

         –        Dù có thế chứ quá thế đi nữa, anh vẫn chịu đựng được.

         –        Anh chủ quán lắm. Em sợ!

Tiếng người con trai nối dài và điềm tĩnh hơn:

         –        Dù ông ta có đưa anh tới đỉnh cao điểm suốt ngày có B.52 chần, anh cũng không từ chối. Như đê Năm hai đấy. Cả năm có một người hy sinh, em biết người đó là ai không? Một tên hèn nhát, là lái xe nhưng cáo đau dạ dày, quanh năm tháng rúc hầm. Nói chuyện với hắn, hắn nói thật, đi tắm cũng sợ, đi ăn cơm, thậm chí đi đái cũng sợ. Vì hắn nghĩ nhỡ đang đái, B.52 chụp xuống đầu là xong! Vừa rồi hắn chết vì rắn độc cắn đi cấp cứu không kịp đấy. Hắn ngủ dưới hầm một con rắn chui vào đớp đúng bàn chân.

         –        Thế vị trí tiểu đoàn sắp bảo anh đến là chỗ nào?

         –        Đèo Sê Su.

         –        Ở đó có ác liệt không?

         –        Cùng tàm tạm. Em lo à?

         –        Vâng.

         Sau đó là im lặng. Im lặng một quãng thời gian dài. Tôi không nghe họ nói thêm gì nữa. Và cũng chỉ nghe dăm ba câu trao đổi, tôi đã hiểu đầu cuốicâu chuyện. Cách đấy một tuần, tiểu đoàn có chỉ thị cho đại đội tôi chọn một tổ lái đến đoạn đường dốc đứng của đèo Sê Su làm nhiệm vụ kích kéo. Tổ này ra đi hết mùa khô mới trở lại đơn vị. Bây giờ nghe Tuấn trao đổi với Tình, tôi mới biết cậu ta được chọn vào tốp người cảm tử đó.

         Tôi không hề biết có ánh đèn pin đang quét dọc bãi xe, nhà để vật liệu. Mắt tôi nhìn thấy, nhưng tôi đã quên khuấy công việc Tuấn nhờ. Khi tôi sực nhớ ra thì người đó đã đến gần. Anh ta hỏi to:

         –        Ai đó?

         –        Tôi. Tôi đây ạ!

         –        Đứng đây làm gì lúc này?

         Tôi lúng túng chưa kịp trả lời. Rõ ràng tiểu đoàn trưởng Oanh, con người rất tinh tế ấy đã nhận ra những cử chỉ giandổi của tôi. Anh bước lại phía tôi thật nhanh. Có thể anh cho rằng tôi ra bãi xe lây ít viên đạn đi đổi gà trong bản.

         –        Cậu cầm cái gì đấy?

         Oanh soi đèn vào tay tôi. Đúng lúc ấy chiếc ô tô của Tuấn nổ máy. Tiếng máy vừa nổ, xe đã lao rào rào qua các bụi cây, chạy rất nhanh ra con đường trong cánh rừng kín. Lúc này tiểu đội trưởng Oanh mới phát hiện ra chiếc xe đang chạy. Anh gọi với theo.

         –        Xe đi đâu đấy, đứng lại!

         Do bước quá đà, anh lọt thỏm vào giữa một bụi cây, nom thật buồn cười. Cái động tác vừa rồi không giống vẻ đi đứng chững chạc của Oanh mà mọi người vẫn thấy.

*

         Bước sang đầu tháng tư. Mặt trận miền Nam Lào khô bỏng trong nắng. Chỉ hơn một tháng mưa, những trận mưa rào lớn sẽ dội xuống những cánh rừng đầy bụi này. Mặt trời vừa lóe lên buổi sớm, độ nóng của những tia nắng đã đậm đặc, gay gắt. Tiếng ve rừng dường như cũng góp phần làm cho không gian căng thẳng. Tôi có thể nằm nghe thấy tiếng rụng cuống của một chiếc lá, tiếng cành khô nứt vỡ bật ra tanh tách. Tiếng động cơ âm u của máy bay thường trực bên tai, gây một cảm giác nhức nhối, khó chịu.

         Tình vừa đi điều trị dưới đại đội ba về. Cô uể oải đi từng bước qua con suối lớn đã bị nắng bốc đi đến giọt nước cuối cùng. Hàng nghìn hàng trăm tảng đá cục, tròn, méo, to nhỏ bị sóng dồn lại một chỗ như đám đồ chơi của trẻ con bỏ quên giữa thiên nhiên.

         Tình ngồi xuống bên bờ suối. Một cành cây cổ thụ như chiếc quạt lông lớn xòe ra che rợp mặt người. Dạo này Tình đang buồn, Tuấn sắp sửa ra đi, cô chỉ có thễ gặp được anh trong những chuyến đi phục vụ lái xe dọc đường. Trường hợp đó, có gặp được cũng chỉ vài phút… Sáng nay, trong lúc giao ban, tiểu đoàn trưởng gay gắt phê phán quân y điều trị sơ suất, để cho Khôi, đại đội trưởng đại đội 5 có nguy cơ phải tháo khớp tay.

         Mình có lỗi gì không? Tình băn khoăn áy náy. Khi bom đánh xuông cây số 3, xe cháy, đại đội trưởng Khôi bị mảnh bom cắt cụt hai đầu ngón tay. Cậu Nam y tá đại đội có mặt lúc ấy đã kịp thời băng bó, tiêm trợ sức cho thương binh. Về đến nhà, Tình rất muốn gửi Khôi lên bệnh xá cấp trên. Nhưng bản thân Khôi lại xin ở lại. Đồng chí đại đội trưởng này có một vị trí đặc biệt trong đơn vị. Anh có biệt tài tháo gỡ vật liệu, lắp ghép, sửa chữa và thay thế xe tài tình. Vắng anh một ngày, sẽ không đảm bảo số đầu xe cho việc vận chuyển hàng ngày. Tuy rất đau, Khôi vẫn xin Tình cho phép được tiêm thuốc, thay băng ở nhà. Hai ngày nay, chỗ vết thương của Khôi có chiều hướng viêm tấy, nóng bỏng. Buổi sáng anh lên cơn sốt kịch liệt. Tình đã vội vã tổ chức đưa Khôi lên quân y trung đoàn. Chủ nhiệm quân y tuyến trên có điện xuống trách chỉ huy tiểu đoàn không quan tâm đến thương binh. Lúc đó tiểu đoàn trưởng Oanh lại là người trực tiếp nghe điện. Vừa nghe điện xong, mặt Oanh tái đi vì giận. Anh không nổi nóng, quát tháo như những người khác. Nhưng trong buổi giao ban, lần đầu tiên Tình thấy Oanh nói những lời chỉ trích quá cay độc.

         Tình buồn quá!

         Bao nhiêu năm nay, Tình đã làm việc không phải chỉ với trách nhiệm thuần túy. Cô đã làm việc bằng tình yêu thương con người thực sự. Kể cả những đêm trên trọng điểm, lửa vẫn cháy, bom đạn vẫn nổ, Tình có nề hà gì đâu. Nhiều khi tự cô đã phải lôi họ đứng dậy, kéo họ ra, dìu họ đi, từ những xác xeđang bốc cháy, đập lửa phủi bụi đất đang bám trên đầu tóc quần áo họ. Thân con gái mềm yếu như cô đã có lúc một mình cõng thương binh đi cả cây số. Năm tháng qua, Tình thật sự đã sống hết mình vì anh em. Thế mà sáng nay, sự đay nghiến của Oanh khiến Tình bối rối. Cô đang ở trong một trạng thái hoàn toàn bất ổn định, cô ân hận vì không dứt khoát bắt buộc đại đội trưởng Khôi phải đi viện. Cô thừa nhận chính cô đã góp phần làm tình trạng vết thương của đại đội trưởng đại đội Năm nặng thêm.

         Vào đúng lúc đó, tôi cùng Tuấn và cậu Thọ thợ máy lốc nhốc kéo nhau lên nhà chỉ huy tiểu đoàn. Đi ngang qua, thấy Tình ngồi một mình, chúng tôi đứng cả lại.

         –        Đi đâu mà còn ngồi đây?

         –        Em đi điều trị về.

         –        Có việc gì mà suy nghĩ ghê thế?

         –        Đâu có gì anh?

         –        Tuấn đi rồi Tuấn lại về. Đừng lo thằng Tuấn nó chê cô Tình.

         –        A Nhà thơ con cóc.

         Chúng tôi cười nhạt nhẽo, lẳng lặng bỏ đi. Hai người đứng bên nhau một lát rồi thấy Tuấn chạy theo. Tuấn có nói với tôi, do ghét cậu mà Oanh đã đẩy Tuấn, tôi và Thọ đi chốt kích kéo ở đèo Sê Su. Tuấn còn tiết lộ thêm bên ngoài thì hết sức bình thản, nhưng bên trong, Oanh đang ráo riết trả thù hai người. Tôi hoàn toàn chưa tin. Việc một tổ xe chốt ở Sê Su đã có trong phương án vận chuyển từ lâu. Nếu tổ lái và thợ của chúng tôi không đi việc đó sẽ thuộc về người khác. Tiểu đoàn đã chọn tôi và Tuấn cũng có cái lý của nó. Tôi thì thận trọng. Còn Tuấn vừa có sức vóc, lại vừa gan góc có tiếng. Còn cậu Thọ là một thợ máy loại giỏi. Theo tôi, lời Tuấn nói ra miệng, đầy định kiến.

         Buổi trưa hôm đó, chúng tôi lên gặp chỉ huy tiểu đoàn để nhận nhiệm vụ, tối lên đường. Nhà chỉ huy tiểu đoàn có một nét khá lạ. Mọi ban chỉ huy thường dựng nhà ba gian. Một tiểu đoàn trưởng ở, một gian dành cho chính trị viên, một gian giành để hội họp, giao ban. Đã ba năm chỉ huy tiểu đoàn, chưa bao giờ Oanh cho dựng nhà chỉ huy theo thể thức ấy. Lần nào Oanh cũng đích thân hướng dẫn làm nhà cho anh riêng biệt hẳn ra một chỗ.

         Căn nhà của Oanh thật nhỏ và xinh. Nó nhỏ như một cái bếp. Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy toàn bộ căn nhàđược dựng bằng nứa. Cột nhà là những gốc nứa to được bào nhẵn, tinh nứa màu trắng ngà. Cửa sổ, vách cho đến mái lợp cũng bằng thứ nứa già dùng lâu vẫn còn giữ được vẻ sáng sủa. Tính Oanh ưa kỹ lưỡng. Chính mắt tôi đã được thấy, tuy chỉ là mảnh nứa ken vách, một chiến sĩ chẻ nứa không đều,Oanh đã bắt phải vứt đi, đo theo khuôn thước, làm lại. Có lẽ công phu như vậy, nên nhìn toàn bộ căn nhà nhẹ nhõm, thanh lịch và mát mẻ. Chúng tôi leo lên một cái dốc ngắn. Oanh đang đứng ở đầu hồi nhà im lìm nhìn vào cánh rừng. Gió nóng thổi bạt những chiếc lá khô chạy trên mặt đất, bật thành những tiếng kêu khô khốc. Nhìn lại thấy chúng tôi, mặt Oanh hơi sáng lên một tý. Không phải là anh cười. Vẻ mặt ấy trong một giây lại trở lại trạng thái cũ, lẳng lặng, cái nhìn chăm chú và tinh tường.

         –        Mời các đồng chí vào.

Chúng tôi ngồi xuống ghế. Anh pha nước, rót ra bốn chén và đặt trước mặt từng người mà không hề bật ra một tiếng động dù rất nhỏ. Oanh giở sổ tay, động tác cũng khẽ khàng. Và anh nói, mặt vẫn lặng tờ như hồ nước không động sóng.

         –        Hôm nay tiểu đoàn rất vui mừng được mời các đồng chí lên giao nhiệm vụ quan trọng. Như các đồng chí từng qua đèo Sê Su thì biết. Đèo nguy hiểm là thế, cây số 18 có một cái dốc ngắn dựng đứng. Xe ba cầu thì không cao, nhưng xe một cầu chỉ cần láng một tý nước đã quay trơn. Không thể nào đi được. Mặt đèo trống, khi bị tắc đường, mười phút đã có thể bị nguy hiểm. Cấp trên chủ trương đặt ở đó một tổ chốt. Vinh dự lớn lao và trách nhiệm nặng nề này, tiểu đoàn xin trao lại cho ba đồng chí. Hiện nay, tại đó, công binh đã dựng được hầm kiên cố cho xe và người rồi.

         Ngồi trước mặt Oanh, nhưng dường như Tuấn không nghe tiếng tiểu đoàn trưởng. vẻ mặt của Tuấn lầm lỳ, khôngai biết cu cậu nghĩ gì. Tiểu đoàn trưởng giao nhiệm vụ xong, anh mời chúng tôi phát biểu, xem có đề nghị gì không. Hai chúng tôi ngồi im. Chỉ có Thọ vô tư, nói bô bô:

         –        Thế chúng tôi ăn uống ra sao, lấy nước ở đâu?

         –        Phải lĩnh lương thực, thực phẩm đi chứ. Với lại hàng ngày đơn vị đều có xe qua lại. Chúng tôi sẽ gửi đồ ăn thức uống tới. Còn suối nước ngay dưới chân cao điểm.

         –        Được thôi!

         Thọ nói buông ra, cứ như nhận đi cũng được mà từ chối cũng được. Có lẽ sự vô tư dễ dãi đó khiến ai cũng quý mến anh thợ thấp béo này.

*

         Có đến nơi mới thấy hết được sự phức tạp của nó. Vừa lên đến đèo, đang ném giường chiếu, ba lô chăn màn xuống, chúng tôi đã bị máy bay quật cho một trận. Tôi vừa nghe một tiếng rú ngắn, bom đã nổ phía đầu dốc. Cả ba người đều lao cắm xuống đất, nằm ép sát vào rãnh đường. Mảnh bom bay vù vù như mũi tên. Rất nhiều đất đá, ném vào người, vào xe bồm bộp. Bụi phủ mù mịt.

         Tôi vào hầm không một bóng người. Có một mảnh giấy nhỏ ghi vắn tắt: “Hầm tốt cực kỳ. Thằng nào ở đây cũng sướng”. Tuấn giật tờ giấy vò nát trong tay. Tôi và Tuấn xếp đồ đạc, còn Thọ đi lấy nước. Thằng cha này siêng năng đây. Tôi nghĩ, ở tập thể với người siêng năng thật dễ chịu. Việc gì khó họ cũng có thể làm hộ cho mình. Chúng tôi vừa kê xong giường, đầu đèo đã có tiếng súng bắn xin xe kéo.

         Chẳng nói chẳng rằng, Tuấn ra hầm xe nổ máy. Những ngày ở đây, tôi mới được chứng kiến tình yêu của đôi trai gái này thật mãnh liệt. Dường như không có ngày nào Tình không có tin cho Tuấn. Lúc thì cô gửi tới một phong lương khô, có dắt kèm một đoạn thư : “Hôm nay, em nóng ruột quá. Đi điều trị ở đại đội ba về, nhưng không ngủ trưa được. Không biết ở đèo các anh có việc gì không?”. Có hôm cô lại gửi lên một bọc lá chua cho tổ kích kéo nấu canh. Cũng lại kèm theo một đoạn thư nhỏ: “Ở đèo anh có khỏe không đấy? Cần gì viết thư báo cho em biết ngay. Chiếc áo em giặt cho anh phơi chưa khô. Em đã định gửi nhưng sợ áo hôi, không gói nữa… Mai anh nhé”.

         Từ ngày lên Sê Su, Tuấn hoàn toàn thay đổi tính tình. Suốt ngày cậu câm lặng và làm việc nhẫn nại như một con trâu. Chỉ đôi lúc, người ta bắt gặp cậu hát cho mình nghe những câu hát vu vơ và buồn.

         Hôm ấy chúng tôi ra đường sớm. Được cấp trên điện cho biết trước, đêm nay sẽ có năm trăm xe vượt đèo. Tổ kích kéo sẵn sàng, bởi trong số xe máy này có cả một tiểu đoàn Gát 53. Loại xe như chúng tôi nói: gặp vũng nước trâu đái cũng giẫy lên đành đạch.

         Chúng tôi đi bộ ra vị trí làm việc. Trăng đã lên. Những hàng cây xác xơ vì bom đạn phía xa xa, gợi lên cảnh tan nát của chiến tranh. Ánh trăng mát dịu và se lạnh. Cái lạnh có thể chịu được nhưng vẫn làm cho Thọ bật ra tiếng suýt xoa. Đến đầu dốc thì Tuấn cũng vừa đưa chiếc Jin 157 đầu tời lùi vào vị trí cố định. Cậu ta tắt máy, nhảy khỏi xe, loay hoay mặc áo giáp. Tuấn đội chiếc mũ sắt, mặt câu tròn lại và như trẻ hơn. Có tiếng động cơ giòn và nhẹ, đúng loại Gát đang chạy lên đèo. Một lát sau, đầu chiếc xe Gát ló ra. Nó chạy đến đoạn dốc cao, phanh lại. Người lái nhỏ bé nhảy xuống kêu to:

         –        Các anh kéo tôi với.

         Tuấn lên xe. Tôi cầm đầu móc tời, sẵn sàng. Tuấn nổ máy, cài số tời, nhả côn. Máy tời quay ro ro. Tôi kéo sợi cáp tời xuống dốc, móc vào đầu chiếc xe Gát.

         –        Ở đơn vị nào đấy?

         –        Dê sáu.

         –        Cái tên nghe lạ hoắc.

         –        Đúng thế. Lính bắc vào mà lại.

         –        Có gì không?

         –        Cái gì?

         –        Thuốc lá, thuốc lào.

         –        Cho các ông bao thuốc đây.

         –        Ông bạn tốt thật đấy.

         Cỗ tời từ từ kéo chiếc xe Gát lên như có một bàn tay thần diệu nào trợ sức. Xe đầu chưa kịp lên, chiếc thứ hai của đoàn đã có mặt. Tuấn lại cài số, nhả tời. Tôi lại lặng lẽ kéo đầu cáp móc vào chiếc Gát dưới dốc. Thỉnh thoảng tôi chui vào mấy căn hầm nhỏ cạnh đó, châm thuốc lá đến cắm vào miệng Tuấn. Cứ thế, hàng đêm dài chúng tôi đã kéo không biết bao nhiêu xe qua đèo. Bom đánh, tất cả chạy vào hầm. Khói bom tan, mọi người lại ra, xe hỏng thì sửa chữa, thay thế. Xe tốt lại tiếp tục cài số tời, nhả dây.

         Một hôm vào khoảng nửa đêm, đoàn xe của đơn vị tôi qua đèo. Đêm ấy, Tình xin được đi công tác trên đường. Cô ngồi ở xe thứ hai trong đội hình hành quân. Dọc đường sắp tới Sê Su, Tình thuyết phục mãi, đồng chí lái xe mới chịu chạy thật nhanh, tạo một khoảng cách khá lớn với đoàn xe, để cô tranh thủ vào thăm Tuấn. Xe vừa dừng bánh, Tình đã bật cửa cabin lao ra, cô vừa chạy vừa kêu to:

         –        Anh Tuấn ơi! Anh Thọ, anh Tuấn ơi!…

         Cô ôm một bọc to, chạy xộc vào hầm. Đêm ấy, tham mưu trưởng cung đường cho biết: không có xe một cầu ra vào nên chúng tôi không cần trực ở đầu dốc đứng. Tình vào đến giữa hầm thì đứng sững lại. Cô nhìn vào bữa cơm chúng tôi đang ăn. Bữa cơm được dọn trên sạp nứa. Một nồi cơm đang bốc hơi nghi ngút, thức ăn là một bọc đường bằng giấy ni lông to tướng. Chúng tôi thay nhau khuếch đường rải lên trên bát cơm và ăn. Tình lặng nhìn ba người. Tuấn, tôi và Thọ phút chốc bê bát ngồi im đến ngây ngô. Tình buột miệng kêu lên:

         –        Sao các anh lại ăn thế này?

         Thọ phá tan sự im lặng bằng nụ cười rất thản nhiên:

         –        Không ăn thế này, thì ăn làm sao?

         –        Em chưa thấy ai ăn cơm tẻ với đường.

         –        Rau rừng thì không có, nước lại hiếm. Ruốc thì hết. Không ăn cơm với đường thì ăn với gì nào?

         Nghe tiếng còi pi pi, Thọ chạy vội ra cửa. Tình ngồi ghé vào chỗ Tuấn. Anh chàng có vẻ xúc động, nét mặt hơi dại đi. Tình đưa cho tôi cái gói. Tôi giở ra xem, đã thấy có một nửa là thịt nai tươi. Tôi quay lại, định reo lên thích thú, chợt im bặt bởi trông thấy Tình và Tuấn đã ngồi rất gần bên nhau. Tôi bước vội ra ngoài, cần giành cho họ một phút yên tĩnh. Tôi biết, cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đối với họ quý giá biết nhường nào. Người ta kể rằng, trong những cánh rừng đôi chim từ quy, con đầu rừng, con cuối rừng, suốt đêm gọi nhau, tiếng kêu thánh thót và da diết. Lúc gần sáng chúng nó sẽ tìm ra nhau và lúc ấy, sẽ im bặt tiếng kêu chứa đầy sự cô đơn kia. Tuấn và Tình chắc cũng như đôi chim từ quy không còn phải thốt lên cái âm thanh kiếm tìm vang vọng rất xa ấy.

         Ngoài đường, đã có một vài xe dồn lên đèo. Bóng các chiến sĩ lái xe lố nhố mặt đường. Trong cái đám lộn xộn ấy, tôi không thấy mặt tiểu đoàn trưởng Oanh. Nhưng khi anh vào gần đến cửa hầm quay lại nhìn, tôi mới giật thót người. Vội vã chạy theo, tôi định gọi, nhưng đã muộn. Oanh đã bước xuống bậc hầm và lấp hẳn sau giàn cây to bằng bắp chân được dựng lên chắn mảnh bom đạn.

         –        Chết bỏ mẹ!

         Tôi buột miệng kêu. Tôi không biết được là mình đã chạy vào đến cửa hầm. Nhưng Oanh đã quay ra. Một tý nữa tôi lao vào anh. Gương mặt Oanh lạnh ngắt và tái xám. Anh đi lùi thêm ra mấy bước hắng giọng và nói nhỏ với tôi.

         –        Các anh có mấy người mà ăn ở lộn xộn quá đấy. Ở đâu cũng cần phải sạch sẽ, gọn gàng, trật tự và ngăn nắp.

         Oanh chưa nói hết câu thì có tiếng động phía sau. Hai chúng tôi đều quay lại. Tôi sợ hãi nhận ra vẻ mặt hầm hầm của Tuấn.

         –        Như thế là không tốt.

         Tuấn quát lên trống không, nhưng lại nhìn thẳng vào Oanh. Tôi hiểu điều gì vừa xảy ra với hai người. Gương mặt tiểu đoàn trưởng của chúng tôi có tái thêm đi một chút nhưng vẫn lạnh lẽo như thường lệ. Anh ta chăm chú nhìn vào con người đang phản ứng quyết liệt. Tôi nhận ra, với vẻ mặt ấy, Oanh không có ý muốn nói và làm bất cứ việc gì. Kể ra, có một người xử sự như vậy cũng thật hiếm hoi và đáng sợ. Tôi ước đoán Oanh như đang ghi nhận tất cả, để rồi sẽ nhớ mãi suốt đời tất cả. Tôi xô tới, gắt vào mặt Tuấn.

         –        Thôi im đi!

         Từ dưới hầm, Tình chạy lên. Cô khóc:

         –        Thôi anh, em xin. Anh…!

         Oanh đã bỏ đi, không nói một lời.

         Tuấn đã quá liều lĩnh. Cậu ta xúc phạm Oanh, ít nhất, cũng là một tiểu đoàn trưởng. Làm sao đôi trai gái có thể tránh khỏi hậu quả? Tôi cũng không tán thành cung cách ăn nói của Tuấn. Thiếu gì lời lẽ nhẹ nhàng, văn hóa hơn vẫn chỉ để truyền đạt cái nội dung đó. Tôi theo dõi từng ngày qua đi, nhưng không thấy Oanh phản ứng trực diện điều gì. Từng đêm, chúng tôi vẫn kéo xe qua trọng điểm.

*

         Ở hậu cứ, đại đội trưởng Khôi được đưa lên trạm xá trung đoàn, rồi lại lên viện sư đoàn, ở đó không còn cách nào khác, bác sĩ đã phải tháo khớp tay của anh. Sau hai tháng trời đằng đẵng, đơn vị tôi nhận được một bức thư dài của anh lời lẽ thống thiết, được viết từ một làng Quảng Bình. Khôi tỏ ra tiếc rẻ phải rời đội ngũ. Cuối thư, để vĩnh biệt chiến trường, vĩnh biệt bạn bè, trở lại với làng xóm, quê hương, anh đã gửi lời chào không thiếu một ai ở tiểu đoàn. Kèm trong thư là tấm ảnh anh vừa chụp, vẻ mặt xanh xao, tay bị thương chưa mở băng.

         Lá thư được Oanh trang trọng đọc to trong buổi giao ban tiểu đoàn. Tình cúi mặt, cô không khóc nhưng nước mắt cứ chảy dài trên má. Thế là Khôi đã ra đi, vĩnh viễn không trở lại. Sẽ không còn ai che chở thanh minh cho Tình. Nhưng cuộc giao ban chỉ dừng lại tại đó. Mỗi người không bàn thêm gì về Khôi. Họ coi như anh ra đi là một sự việc đã rồi. Tình cố ý chờ xem đến phút cuối Oanh có phê phán gì thêm cô nữa không. Nhưng anh ta cũng đã gấp sổ sách đứng dậy.

         Buổi tối hôm đó, tiểu đoàn phó cho gọi Tình lên. Tình vội vàng đi ngay. Đồng chí cán bộ già nhìn cô một lát. Khuôn mặt ông thật hiền.

         –        Tình ạ. Tiểu đoàn yêu cầu cô làm bản tường thuật lần thứ ba đấy.

         –        Có khi cháu không làm nữa đâu chú ạ. Sự việc có thếthôi, cháu đã kể hết rồi.

         –        Chỉ nói dại thôi.

         –        Cháu nói thật đấy.

         –        Nhưng tiểu đoàn yêu cầu!

         –        Tiểu đoàn là ai mới được chứ ạ?

         –        Là… là ai? Là tất cả chứ là ai?

         Đồng chí tiểu đoàn phó ngập ngừng rồi nói lảng ra. Tình ấm ức trở về. Mắt cô đỏ lên như muốn khóc. Cô cương quyết không làm bản kiểm điểm. Cô mắc màn, tung chăn đi nằm sớm. Càng nghĩ càng buồn bực, cuối cùng rất khuya, cô bật dậy. Chọn một tờ giấy trắng, cô viết dòng chữ như người ta siết mũi dao vào tờ giấy: “Tôi không có tội gì cả”.

         Rồi cô thổi phụt đèn đi ngủ.

         Sáng sớm, đánh răng rửa mặt xong, Tình đi thẳng lên nhà Oanh. Cô đặt tờ giấy lên bàn của đồng chí tiểu đoàn trưởng, rồi đi như chạy về nhà. Một tuần sau, Hội đồng quân nhân tiểu đoàn họp và công bố đề nghị cấp trên đình chỉ công tác của Tình, buộc cô phải xuống làm việc ở tiểu đội nuôi quân.

         Tình xin được nghỉ vài ngày trước khi thu xếp về làm ở tiểu đội nuôi quân. Cô dự định trong năm ngày này sẽ tắm giặt, nghỉ ngơi rồi có xe sẽ bám theo lên Sê Su thăm Tuấn. Ngày đầu tiên được nghỉ qua đi chóng vánh. Cho đến ngày thứ hai, thứ ba… nỗi chán ngán, nỗi bực dọc và cái nắng ngột ngạt hành hạ, cô không làm sao dậy được. Cô hoàn toàn không biết rằng giữa những ngày cô nghỉ, tiểu đoàn trưởng Oanh đã có quyết định chuyển đi đơn vị khác làm trung đoàn phó. Buổi chiểu hôm ấy, một cô bạn gái vào nhà gọi Tình.

         –        Chị Tình ơi, sao bây giờ vẫn chưa dậy à? Người ta đã đi ăn cơm hết rồi kìa!

         –        Sao hôm nay lại đi ăn sớm thế?

         –        Thế hôm nay liên hoan, chị có biết không?

         –        Việc gì mà liên hoan nhỉ?

         –        Ông Oanh đi, ông ấy đi trung đoàn khác.

         –        Thật sao?

         –        Đúng đấy. Chị ngạc nhiên lắm à?

         –        Không… Không.

         Oanh đi thật sao? Tình ngồi bật dậy và tỉnh táo trở lại. Bao nhiêu ngày tháng cô đã sống bó buộc, nặng nề như bị kìm hãm, không chế. Mặc dù cả tiểu đoàn hàng trăm con người không ai thừa nhận Oanh có một hành động trả thù cô. Tình vội vã chải lại đầu, sửa sang quần áo rồi đi theo cô bạn.

         Cửa rừng, nơi tiểu đoàn dùng làm sân, đã được quét sạch bóng. Đông người quá. Có bao nhiêu bàn ghế đã được bê tất ra sân bãi. Thì ra cả một ngày, Tình nằm ỉu xìu trong nhà tách biệt hẳn với cái thế giới sôi động tấp nập ở bên ngoài.

         Phía nhà bếp thật bận rộn. Người ta đang ngả trâu để làm thịt. Những món nướng, món xào hầu như đã xong cả.

         Nhiều chậu thịt chín được bê đặt lên bàn bốc hơi nghi ngút. Từng tốp người ngồi xúm xít một chỗ, bàn luận đủ mọi chuyện. Nghe được dăm ba câu, Tình cảm thấy có lẽ cả tiểu đoàn này chỉ một mình cô và Tuấn ghét Oanh. Tại sao thế nhỉ? Chính cô cũng không thể hiểu nổi. Đa số bạn bè, đồng đội của Tình vẫn thừa nhận Oanh là một tiểu đoàn trưởng giỏi nhất trong bốn tiểu đoàn trưởng của trung đoàn này. Một tiểu đoàn trưởng vóc người nhỏ nhắn, trắng trẻo, tinh tế, ít khi nổi nóng, giỏi về kỹ thuật, có tài điều hành chỉ huy vận tải. Những nhận xét, những lời bình phẩm, ca ngợi về Oanh cứ làng màng bên tai Tình. Chính phút đó, cô chợt thấy Oanh đang từ dốc đi lên. Anh ta đi cùng hai cán bộ lạ mặt. Hôm nay, Oanh mặc áo phin trắng. Chiếc áo này làm cho Oanh trẻ thêm ra.

         Sau buổi liên hoan vẫn chưa thấy Oanh rời đơn vị. Anh đã có quyết định và đang chờ xem nếu có xe lên bộ chỉ huy mặt trận thì đi cùng một thể. Còn Tình hết hạn nghỉ năm ngày, cô dọn đồ đạc xuống tiểu đội nuôi quân, cách chỗ ở cũ vài trăm mét. Chưa kịp đi làm công việc mới được buổi nào, đơn vị đã có một sự đảo lộn lớn. Mặt trận phía trong thành lập một trung đoàn vận tải. Nhiệm vụ của tiểu đoàn xe này phải dồn góp đủ quân số một đại đội chi viện cho đơn vị mới. Tình vừa nghe tin buổi sớm, buổi chiều tiểu đoàn đã tập trung bộ đội, đọc quyết định những người đi đơn vị mới.

         Và dịp ấy Tình đã ra đi. Cô không thể ngờ cái ngày ấy lại là ngày cô sẽ phải nhớ mãi. Cô ra đi, đúng như sự ra đi của một người lính. Một ba lô và một chiếc túi nhỏ đựng khăn mặt, bàn chải răng và cuốn sổ bìa ni lông. Cô và đồng đội còn ra đi trước cả tiểu đoàn trưởng Oanh, người nhận quyết định và liên hoan cách đó gần một tuần. Tất cả những người ra đi đều được xếp lên một chiếc xe lớn. Trong số người đi không có Tuấn. Tình cũng không kịp báo tin để Tuấn trở về chia tay. Thậm chí việc ra đi ấy mãi một tuần sau, ở đèo Tuấn mới biết.

         Chiếc xe tải ấy lên đường vào lúc mặt trời sắp lặn. Thôi chào nhé! Tình nhìn khắp lượt nhà cửa cảnh vật, con suối cạn, những cây săng lẻ to cao, nơi cô đã có một thời gian gắn bó. Tình không hề hy vọng gặp Tuấn dọc đường. Anh ở cách xa đơn vị chục cây số, ra khỏi cánh rừng, đã nhìn thấy con đèo anh đang sống ở trước mắt. Con đèo cao lừng lững, màu xanh, đứng ngang trời kia. Xe càng chạy, Tình càng có cảm giác như ngọn đèo xích lại gần. Nhưng cảm giác đánh lừa cô: Chính cô cũng thừa biết, một vòng bánh xe quay là cô đã đi xa anh thêm vài bước. Trời tối xuống rất nhanh. Chỉ một lát sau đó, màu xám của con đèo đã lẩn vào đêm tối mênh mông.

         Tình ra đi chừng một tháng, tôi được lệnh trở về đơn vị. Còn Tuấn, do Tư lệnh trưởng cung đường tín nhiệm, đã được cắt hẳn cho tiểu đoàn công binh ở lại đèo Sê Su, làm nhiệm vụ kéo xe. Tôi về tiểu đoàn được chừng một tháng thì tất cả người và phương tiện được đưa ra miền Bắc. Mùa khô đã chấm dứt. Mùa mưa bắt đầu dội nước xuống những cánh rừng rậm rạp của đất Lào. Ác thay, từ một trung đoàn gần sát chiến trường K, mỗi tháng Tình lại gửi ra cho Tuấn một vài bức thư. Sốt ruột quá, tôi đành phải viết cho cô ấy mấy lần, thông báo Tuấn vẫn làm việc ở đèo Sê Su. Có thể do thư từ ở chiến trường dễ bị thất lạc, Tình vẫn không nhận được thư tôi viết cứ tiếp tục viết thư ra tiểu đoàn cho Tuấn. Lá thư cuối cùng, cô như đã bất lực. Là bạn của họ, tôi chỉ còn biết cầu may cho đôi trai gái ấy. Bặt tin họ, tôi tự an ủi mình, chắc họ đã gặp lại nhau trong ấy! Chiến trường tuy thật rộng, nhưng đèo Sê Su, con đèo lớn và ác liệt có tiếng ấy lại chỉ có một người tên là Tuấn, quanh năm ngày tháng ở lại kéo xe.

         Kể từ dạo đó, mười mấy năm qua đi, chiều nay tôi mới gặp lại Tình, vẫn cái nhìn, nụ cười dễ mến. Gặp tôi, cô xúc động thật sự. Vì quá đột ngột nên tôi chưa dám hỏi điều tôi đã từng nung nấu bấy lâu nay: Tuấn ở đâu? Và bây giờ Tình đang sống như thế nào?

         –        Đi lối này anh. Nhà em kia kìa.

         Chúng tôi vội rẽ theo Tình. Tôi nhận ra cô gái vẫn còn đang hồi hộp. Và khi về nhà, phần nào tôi cũng đã đoán ra được hoàn cảnh của Tình. Tình mở cửa, mời chúng tôi ngồi xuống ghế. Cô cũng ngồi thừ ra nhìn tôi. Một phút căng thẳng qua đi. Tôi hỏi:

         –        Thế Tuấn ra sao?

         –        Thì em cũng muốn hỏi anh điều đó.

         Và chỉ nói được đến đó. Tình cúi mặt xuống khóc. Như thế, tức là Tuấn đã không còn nữa. Sau này tôi được rõ thêm, đã có một lần, ngày vừa trở ra Bắc, Tình đã đến quê Tuấn. Chính những ngày đó, bố mẹ và các em Tuấn cũng chưa biết .Tuấn đang ở đâu. Lần thứ hai Tình viết thư cho gia đình Tuấn. Bức thư được trả lại với dòng chữ ghi rõ ràng: “Cả gia đình đã chuyển vào Nam”. Những năm qua, tuy không thể quên được Tuấn và vẫn có ý chờ anh, nhưng rồi Tình hiểu rằng mãi mãi chẳng bao giờ gặp được anh. Tình đã chấp nhận một người con trai khác. Vào cái tuần tôi về nông trường công tác là tuần họ đang chuẩn bị tổ chức đám cưới. Người chồng của Tình là một anh bộ đội phục viên trở về, học xong đại học. Hiện anh là kỹ sư, trưởng phòng kỹ thuật của nông trường này.

         Còn Oanh, tôi không biết bây giờ anh ở đâu. Tôi có ý định gặp lại bạn cũ sẽ hỏi xem anh ta bây giờ làm gì. Nhưng buồn thay, mỗi cuộc gặp lại bạn cũ, nói bao nhiêu chuyện mừng vui rồi rốt cục lại quên đi cái ý định đó.

         Tôi tự nghĩ, phải chăng mọi người cũng không còn nhớ đến anh ta nữa.

Vân Hồ tháng 3 năm 1984

CON THÚ

         Cô gái ấy đang đi trên phố. Dãy phố nhỏ, có những bông hoa trúc đào màu hồng thật rực rỡ. Thoáng có những cơn gió chạy rông, quét những chiếc lá kêu ràn rạt. Nàng đi tung tẩy, chiếc váy ngắn có sọc màu sáng lòe xòe, lúc lúc lại phấp phới, để lộ cặp giò non trắng muốt, khiến có người đi đường cứ phải gắn con mắt vào đó. Cha nàng không bao giờ muốn con gái mặc chiếc váy này. Nó dễ là dấu hiệu tai họa. “Tao cấm!”. Cha trợn mắt quát. Mặc kệ! Nàng không chống lại cha công khai. Song nàng gấp quần áo, gói giấy báo cho vào túi sách rồi ra nhà tắm công cộng thay! Thấy con im lặng, cha nàng sinh nghi. Một hôm ông đi theo nó và bắt gặp sự việc ấy. Đùng đùng nổi giận, không dám tát nó một cái như ngày bé song ông giật phắt cái cặp “Về ngay!”. Ông giam con gái tại nhà! Thì ở! Một ngày im lặng, không tỏ ra buồn, vui, khóc lóc. Nàng bình thản đọc sách, lơ láo lướt qua mấy tờ tạp chí. Mai nàng vẫn không chuẩn bị gì cho việc tới lớp. Ăn sáng xong nàng xếp lại bộ ảnh trong an-bom. Sao mày không đi học hả? Bố vẫn giam con tại nhà đấy thôi! Mày cứ làm như mày học cho cha mày! Im lặng. Vừa ngạc nhiên vừa tự thấy mình phải đến lúc nhượng bộ, cha nói rõ việc phải tới lớp với nàng! Vâng! Thì con đi vậy! Song vẫn không được mặc cái váy cũn cỡn đâu nhé! Từ sâu trong mắt nàng ánh lên rất lạ. Dường như là sự phản ứng. Trên đời chỉ có cha là hà khắc. Còn thiên hạ thì chiều chuộng nàng hết ý. Đến ông giáo khó tính, suốt ngày cau có của bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng nhìn sâu vào mặt nàng. Cái nhìn vừa dễ chịu vừa khó chịu. Phút đầu, cái cười có vẻ mập mờ khó hiểu. Mặt ông chùng lại, dịu xuống, nét gay gắt bị xóa sạch trên gương mặt khắc khổ. Sau cùng, mặt ông giãn hết cỡ, thoải mái, nhưng sau không thấy ai, ông đưa cho nàng chiếc phong bì. Nàng trố mắt ngạc nhiên. Tiền đấy! Em có thể dùng ăn sáng. Già cóc đế mà còn em! Nàng từ chối. Nhưng ông đã bỏ đi một cách dứt khoát. Thiên hạ không thiếu người sẵn sàng hy sinh cho nàng. Ở đâu cũng có thể gặp. Ngay hôm mua bánh xà phòng thơm, một chàng trai cứ quyết trả tiền hộ. Tất nhiên nàng cũng gặp không ít khó chịu. Có những cái nhìn như sờ vào ngực. Trên xe buýt gặp nhiều cảnh chen lấn. Chà, có lão còn lỳ lợm, cốchạm vào ngực hay quần nàng, thậm chí chạm đúng phải cái chỗ ấy!

         Nàng lại ghé vào một nhà tắm công cộng thay váy. Phải chuẩn bị cho việc hiện ra trước mặt cha với hình ảnh ông đã quen thuộc, uể oải xộc xệch vì đói, mệt, không chút chú ý đến thân thể! Thật bình thường trước mặt cha! Một dấu hiệu nhỏ không bình thường là ông theo đuổi ngay, săn tìm như người thợ săn theo vết chân thú. Tao phải giành mày từng phút với thiên hạ đấy con ạ. Đó là câu ca cẩm nhưng cũng là lời tuyên bố của cha. Thấy cha dạy anh Quang ngày nhỏ mà nàng sợ. Ông phải đánh thật đau để con cái có ấn tượng. Ông bảo với hàng xóm như thế. Theo ông, một cuốn sách và một roi mây vuốt nhẵn đã thành một cái trường học. Ngày nhỏ Quang cũng khá mất dạy! Ai đời có ông già đang đi trên đường, lũ trẻ dại dột và ngớ ngẩn thách nhau, đứa nào dám chạy chui qua háng ông già sẽ là anh hùng!

         Tất nhiên đám trẻ khôn vặt kia thách chứ đâu dám. Chỉ có Quang nhận lời. Nó nhìn ông già rồi cúi xuống, lò cò chạy tuột qua háng ông lão. Tiên sư bố thằng mất dạy! Lão già định chạy mà không kịp. Quang đội lão lên rồi chạy vụt qua. Bọn trẻ vỗ tay, còn ông già đuổi theo Quang chửi rủa om sòm. Hôm ấy cha nàng không làm ầm lên như mọi khi, nhưng quyết liệt hơn. Ông mượn một gian nhà tắm công cộng giam vào đó. Đến trưa, thì Quang dỡ ngói chui ra. Sắp đến giờ bố về, nó lại lặng lẽ trèo vào như cũ. Lần sau, có trận mưa rào, nước ngập lênh láng. Lũ quỷ sứ lại rủ nhau ra mấy vũng nước đọng tát cá. Làm đếch gì có cá ở đó! Thế mà say sưa, quần ướt, mặt đầy bùn, đứa xô, đứa chậu hùng hục tát. Quang lấy chiếc mũ cối của cha tát nước. Nó vừa nhẹ lại vừa múc được nhiều. Cha sẽ giết anh đấy! Cóc sợ! Tát cạn vũng nước lớn cũng có một con nhái xanh. A… À… bọn quỷ sứ đuổi theo vồ con nhái. Lại không may rồi! Ôi ôi! Bà bún ốc đang gánh gánh chạy qua, Một thằng trong bọn quệt vào, cả gánh hàng của bà lão bắn tung tóe. Lần ấy cha đã trói Quang, bằng dây thừng hẳn hoi. Hai tay Quang rộp lên. Mặc kệ! Quang thật anh dũng! Không một giọt nước mắt. Một lúc đã thấy ngồi bệt xuống, tay quàng quanh gốc cột nói chuyện và chơi với lũ kiến đen đi kiếm ăn dưới sân nhà.

         Thế mà bây giờ Quang lại dễ tính mới lạ. Cái gì cũng cườixòa không thèm chấp. Ra dáng đàn ông lắm. Học cũng vừa vừa nhưng tuyên bố thì kinh lắm. Làm trai, không có danh thì phải có quyền, không có quyền thì phải có tiền, như đám bạn bè mày, thanh niên bây giờ rỗng tuếch, chả có chí hướng gì. Xin lỗi! Thế anh đã là cái thá gì? Chờ đấy. Quả thật Quang bắt đầu có tiền. Nghề kỹ sư xe máy của anh ta có lúc khá ra phết. Xoa đầu em, Quang quẳng cho một bịch. Nhưng đó là tiền hai trăm thôi! Cả một cục thật, nhưng chỉ mua được cái quần bò.

         Càng về gần nhà, nàng càng sợ. Hình như quần áo tóc tai, dáng đi của nàng không ổn lắm. Một nỗi sợ kín đáo từ sâu trong lòng mỗi lúc một lộ rõ. Con tim nàng bỗng dưng đập thất thường trong lồng ngực. Nàng hình dung ánh mắt cha lóe lên, giống như ánh đèn pin cực mạnh chiếu vào, khi người ta đã túm được tên kẻ trộm.

*

         Giáo sư Nam – cha nàng đang cặm cụi trên bàn làm việc. Ồng đang dịch một bài viết ngắn từ tiếng Pháp để sắp sửa bán cho một tờ báo tuần. Con chào cha. Sao hôm nay tiếng nó thập thõm thế nhỉ. Thủy! Dạ. Con lại đây bố bảo. Thủy hiện ra, vẫn còn cầm chiếc áo vừa cởi trên tay. Hai vai cô gái bắt đầu tròn, ngực to vừa đủ độ đẹp. Vẻ hoàn hảo giống như quả chín tới, nếu chín thêm thì sẽ hỏng. Giáo sư Nam lướt qua con gái. Ông ngửi thấy tận đáy mắt của nó sự bất ổn. Và ông đứng dậy. Ông đang hình dung việc gì đã trải qua với con bé buổi sáng này? Hình như người nó thoảng mùi sô-cô-la. Hôm nay con có gặp anh chàng nào không? Dạ không? Anh chàng buôn xe máy? Dạ không! Anh chàng dạy ở Bách khoa? Dạ không! Ông tin con. Nó chưa đến mức nói dối trắng trợn. Nhưng đồng thời ông biết, Thủy con gái ông giấu những chuyện mà ông chưa biết. Ông đi thẳng vào bếp sau khi nàng đã trút bộ quần áo dài. Ông cầm lên xem từng chiếc một. Và mũi ông đúng! Quần áo con bé có mùi sô-cô-la. Mắt nàng thoáng hoang mang. Cha ạ, lớp con liên hoan đấy! Được rồi, cha sẽ kiểm tra lại. Vâng! Buổi chiều, giáo sư đến trường, lại gặp tay bí thư đoàn. Sau cái nhìn hết sức mập mờ, nghi hoặc, anh chàng quyết định nói dối giáo sư để lấy lòng và bảo vệ Thủy. Cô gái mà chính anh ta rất mê nhưng chưa làm sao tiếp cận được.

         Giáo sư Nam quê gốc Nghệ An, miền đất mà theo ông, là vùng người giống Tàu. Tức là vùng ai sinh ra cũng có chí hơn người. Họ sẽ thành đạt. ông khẳng định không một chút ngờ vực. Cái vùng dân đã ăn cá gỗ để đi học thì không còn là chuyện đùa nữa. Ông hết sức tự hào về ý chí của người quê ông. Và đó là sự thật. Xã Nam Hải của ông có năm làng, thì đã có gần một trăm giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ ở Hà Nội. Một nửa trong số họ là các nhà khoa học lớn lãnh đạo các ngành, các bộ. Vậy mà ngày bé, ông đã sinh ra trong một gia đình nửa năm không có cơm là bình thường. Cha ông, một lão nông mà lại rất nghệ sĩ. Làm ruộng thì dông dài, chi tiêu lại phóng túng. Ông luôn luôn kể về cha mình ngày xưa để răn dạy con. Ông không bao giờ quên được hình ảnh lão Khôi. Ôi cái lão thợ xe lửa Hà Nội, dám bứt quê ra đi, mà ngày về phép, vợ mặc áo hoa, quần thâm, con đứa nào cũng có dép. Cha ơi! Nhà bác Khôi có thịt ăn đấy. Thịt lợn nhá! Đó là cả một sự kiện cả làng biết. Họ sẽ đi xe lửa ra ngoài Hà Nội đấy cha? Nào cả đời cha ông có biết mặt cái xe lửa. Hình ảnh lão Khôi là thần tượng chói ngời cho ông theo đuổi. Và bây giờ ông đã thành đạt. Là một giáo sư có tiếng, ông mơ ước tạo một dòng họ bề thế ở thủ đô. Ông đã nghĩ đến gia huy cơ đấy. Ước mơ thầm kín ấy dẫn đến việc xử sự của ông với các con. Ông uốn, ông rèn chúng như rèn dao. Ông quên mình đi. Vợ chết khi bé Thủy lên mười, ông vẫn quyết ở vậy. Vì đời đã dạy cho ông một bài học đích đáng! Ông mê cô Loan. Cô cũng mê ông. Cô thường nhìn vào mắt ông lâu và rõ ràng cái nhìn gợi ý. Ừ thì chơi. Cái thằng đàn ông trong ông lần đầu vượt qua giới hạn. Cũng may dạo ấy hay có thưỏng lặt vặt. Năm ngàn ngày ấy cũng to. Nửa số tiền ông cho vào quỹ nhà, sắp sửa xây cái hố xí tự hoại. Còn một nửa ông cốthanh minh với chính mình và quyết một lần mang đi theo Loan, trong dịp đi chơi xa. Một tuần xả láng. Đúng là đồng tiền khởi động cơ thể đang có chiều hướng về già của ông. Ông đã tiếp nhận khoái cảm từ người phụ nữ thân thể lồ lộ, tràn trề sức sống ấy. Ông thấy sung sướng. Ông tiếp tục! Song cuộc đời thật là. Người ta chơi đông, chơi tây không sao, ông đi với Loan một tuần về tưởng trôi chảy, hóa ra lại mắc. Em đau bụng anh ạ. Chỗ này này. Loan lật bụng trắng hếu chỉ vào vùng dưới rốn. Em nghĩ là có thai đấy! Năm chục ngàn cho phá thai! Giáo sư Nam chết điếng! Nào đã xong. Lại rắc rối tiếp. Một hôm, Loan lại đến: Em vẫn bị ra máu anh ạ. Giáo sư Nam tái mặt hoài nghi. Hai chục ngàn thuốc thang nữa. Vị chi nửa cây vàng cho thói ỡm ờ đĩ thõa của mình. Ông cạch từ đấy.

         Tuy là giáo sư, ông Nam vẫn còn rớt lại cái ranh vặt của nhà nông. Ông ky cóp, ông tham ô nhỏ (không ai biết, ngày ông làm thư ký khoa học). Hàng ngày về nhà, ông còn lấn đất hàng xóm. Cái lão đại tá bên cạnh, mỗi lần về phép cứ ngạc nhiên: quái, cái vườn nhà ta sao cứ hẹp lại. Hàng rào trúc xanh rì xua trong gió. Chính giáo sư Nam tỉa trúc, chặt mầm và không tưới tắm gì phía nhà ông. Đất bên này cứ khô sắt lại. Song ông vẫn giội nước sang phần rào nhà đại tá. Giống trúc được ẩm cứ lặng lẽ tiến sâu vào nhà đồng chí bộ đội. Khi phát hiện ra, công an phường phải đến làm trọng tài, chăng dây, cắm đất.

         Giáo sư Nam đã cải tạo nâng cấp nhà mình. Xem ra cả cái xóm phố này, nhà ông bề thế, rộng rãi, khang trang hơn cả. Được cái Quang cũng nghĩ như ông. Hai cha con, tuy lúc gặp nhau, nói năng chủng chẳng, cha không nhìn con, con lảng nhìn chỗ khác, nhưng dòng máu họ Vũ chảy tràn ngập trong họ. Tháng này Quang đưa cho cha nửa triệu… Và dự tính, sẽ ốp đá hoa cương toàn bộ mặt tiền của ngôi nhà.

         Con người ta suốt đời khổ vì hai cái lỗ. Giáo sư Nam nói với con trai mình như vậy, Quang giương mắt nhìn cha. Gần đây bắt đầu thấy Quang có vẻ nghe theo cha một nửa và nghi ngờ một nửa. Song quả thực cha anh nói rất hay. Cái lỗ miệng và cái lỗ ấy ấy! Quang hiểu. Giáo sư nói toạc ra như vậy. Ông thường dạy con trai bằng toàn bộ hiện thực muôn mặt của cuộc sống. Dạo tuổi dậy thì, đi học, thằng bé ẩu quá, lao xe vào đống sắt. Thấy con trai mặt xây sát, một tay xách ghi đông, tay kia xách hai bánh xe còng queo, hàng xóm thì phì cười, giáo sư tái mặt. Cả ngày hôm sau, ông bắt con múc đầy chậu nước đổ ra sân gạch rồi lại hốt vào. Cứ thế, và cứ thế. Có lẽ phải đến dăm chục lần, hai bàn tay thằng bé nhợt ra, tứa máu đỏ lòm, ông mới chỉ vào ghế cho nghỉ. Thế nào, con thấy chậu nước đổ vớt lại thường được bao nhiêu? Quang tròn mắt nhìn cha. Sau này anh mới hiểu cái thâm ý của cha trong việc làm ngày hôm đó.

         Nhưng đối với con gái, giáo sư Nam hướng dẫn tế nhị và không kém phần nghiệt ngã. Ngày bé Thủy hay dỗi, dấu hiệu của cô bé giàu tình cảm. Ông vẫn nhớ dạo đi thăm mộ mẹ. Con bé khóc nức lên như bị đánh. Hỏi mãi, nó mới nói mộ của mẹ nó nhiều lỗ chuột. Nó sợ trời mưa, nước sẽ chảy vào mẹ. Giáo sư ứa nước mắt. Thế là mấy cha con hì hục đắp lại ngôi mộ cho thật kín, thật đẹp. Nhưng càng lớn, Thủy càng có mầm mống một con bé ẩu. Quét nhà thường quên gầm giường. Nấu canh thường quên bỏ muối, sểnh một cái đã tếch ra ngõ. Đổ bã chè cho bố thì lắc đến đập toang cái ấm tàu cổ rất quý, chỉ còn cái quai chìa ra trong tay. Giáo sư thét lên: Sao? Tiếc ấm thì ít. Sợ nhất là dấu hiệu một cá tính chểnh mảng, làm việc không đến nơi đến chốn. Ngay hôm sau. một tuần liền, giáo sư bỏ cả vốc sạn vào bao tấm. Ông buộc Thủy phải ngồi nhặt sạn cho sạch gạo. Con bé ngồi đến sưng cả chân, hai mắt đỏ hoe lên, đầu tóc rũ rượi.

         Cha ơi! Cha vô lý lắm! Gạo đang sạch sao cha lại trộn sạn để làm khổ con? Mặc mày! Ông quắc mắt. Thái độ của ông hết sức cương quyết. Cô bé rũ xuống, nước mắt chảy tong tong. Mẹ ơi! Nó kêu lên. Chợt giáo sư thấy một ngôi mộ nhỏ xanh rờn. Vợ ông, mẹ của Quang và Thủy đang nằm sâu dưới các tầng đất. Vợ ông chưa chết. Chị chỉ đi vắng thôi. Đêm đêm chị vẫn về bên ông, nhắc nhở việc lo toan, chăm sóc hai đứa con. Thường những phút này, giáo sư ngồi lì bên vợ. Và chị tách ra khỏi mộ lên ngồi sát bên ông. Chị đồng tình với ông phải cương quyết trong việc đưa con cái vào khuôn phép. Tình cảm lắm chỉ được một việc nhưng hỏng nhiều việc. Dân xứ Nghệ của ông khác người chỉ có thế thôi. Nhục nuốt vào trong. Nước mắt, giấu kín trong đáy lòng. Chỉ có một loại người thành đạt trong cuộc đời này, đó là kẻ ý chí hơn người.

*

         Giáo sư Nam ngắm con gái đi lại trong nhà. Con bé thật sự là bông hoa của hai vợ chồng ông.

         Giá như nó được cái cốt cách như vợ ông thì tốt: mềm mại cởi mở trong cư xử nhưng lại rất cứng rắn, đến mức không sức mạnh nào lay chuyển. Ông nhớ ngày đang yêu, cả tháng ở trường đại học, cứ nghĩ, hè này về nhất định phải thực hiện bằng được cái việc ấy. Nhưng không làm sao ông thực hiện được. Ông bực thì chị giảng hòa, trêu cho ông tức cười. Ông giận, thì chị rơm rớm nước mắt. Đến lúc ông dùng mẹo, đè ngửa ra bãi cỏ, tay sờ hẳn vào ngực để kích động, vậy mà không những không thích, chị còn van xin ông và dọa sẽ nhảy xuống sông nếu việc đó xảy ra. Chao ôi, vợ ông là vàng mười đấy. Thế mà sau ngày là vợ chồng, chị lại cởi mở, khuyến khích nhận đón ông bất cứ lúc nào. Kể cả lần đi phố chợ tạt vào nghỉ trên bãi cỏ ven đê.

         Gần đây, ông suy nghĩ khá nhiều về bọn trẻ. Hình như chúng ham sống quá, táp lô quá. Chúng đi tìm kiếm sự sung sướng bằng mọi cách. Giáo sư quyết dạy con gái theo nếp truyền thống. Sáng dậy sớm. Ở Hà Nội, ăn sáng có quà, nên nàng chỉ phải làm vài việc nhẹ: dọn nhà, lau ấm chén, đổ tràn nước sôi nóng bỏng vào ngâm tại bàn chờ cho cha pha chè. Lấy bình nước lọc có pha muối nhạt để ông tống khẩu. Sau khi súc miệng bằng thứ nước tuyệt đối trong sạch và vô trùng đó, thưởng thức ngụm trà sen rồi ông mới ăn sáng. Quang thường hay dậy muộn. Đàn ông được quyền như vậy con ạ. Bởi vì họ sẽ là người phải làm các việc thật lớn. Nàng hiểu và không tị với anh. Xong hết công việc cho ba người, nàng bước vào nhà tắm. Phải làm sạch và thơm tho thân thể lúc đầu ngày và cuối ngày. Cha dạy như vậy. Việc này nàng có thể tự nguyện được. Tắm nước nóng buổi sáng bao giờ cũng thông minh hơn, tự tin hơn. Nàng làm sạch mặt, mắt, mũi, lỗ tai, miệng. Người phụ nữ chỗ nào cũng phải thơm, sạch, đặc biệt những vị trí khuất.

         Giáo sư Nam nhận ra bộ ấm chén sạch bóng, nhưng chưa có nước sôi ngâm ít nhất trong dăm ba phút. Sao thế này con? Con quên. Nàng vội vã, cúi đầu, uyển chuyển rót nước vào bộ khay. Hôm nay nó lặng lẽ hơn, và tối qua, cười to hơn. Dấu hiệu không bình thường về mặt tâm lý. Giáo sư Nam thong thả bước vào phòng của con. Các vật dụng của cô gái trưng bày nhiều hơn và hình như lộn xộn hơn. Đầu ông vụt lóe lên một quyết định táo bạo: Hôm nay, ông sẽ giành thời gian để đi theo con xem nó đi đâu, làm gì. Ông dạo xe đi phía sau con. Nó dừng lại. Nó mua một chiếc khăn mặt cho vào túi, rồi thản nhiên đạp xe đi tiếp. Giáo sư cũng đạp xe theo cách xa xa. Tới cổng trường đại học, nó xuống xe, tươi cười với mấy người rồi cúi xuống nhìn lại ngực và đùi, bước đi. Nó gửi xe, một lúc sau giáo sư cũng gửi xe. Hình như nó vào lớp muộn. Đã khá đông người. Hai tiếng ngồi ngoài để xem con gái có bỏ học đi chơi không. Nhưng ông chỉ thấy hai chàng trai ra ngoài, ghé vào quán uống rượu. Từng có năm tháng dạy ở cấp đại học, ông biết, sự ma mãnh của các anh các chị ấy tinh vi như toán cao cấp. Khó mà đoán, khó mà lường. Giáo sư quyết định gặp thầy chủ nhiệm của con. Anh chàng gầy và cao này ông có quen sau hai lần gặp. Một lát tìm kiếm, ông gặp anh chàng đang đi ngay trên hành lang. Bác muốn hỏi về đức hạnh em Thủy ạ, tốt! Không, tôi muốn biết cái sâu hơn điểm học tập, sâu hơn cái tôi và anh nhìn thấy. Không. Em Thủy chưa có gì xấu đâu ạ. Đi học đều. Sống cởi mở, bạn bè khen lắm. Giáo sư Nam biết. Nhưng có lẽ anh ta không có đủ điều kiện để thỏa mãn cái ông muốn biết.

         Ra lại quán nước trà đang uống dở, giáo sư Nam phảng phất sự hồ nghi. Hình như ông chưa nhìn thấy tận đáy của sự thật, cha cũng phải tin con chứ? Con lớn rồi đấy thôi! Nàng vài lần nói với cha như vậy. Khi đã tìm ra được chỗ tựa cho chính mình, giáo sư đứng dậy ra về. Thôi! Thế cũng là đến nơi đến chốn rồi còn gì. Thành người hay không còn tùy thuộc ở chúng nó. Cứ be bờ, ngăn giữ, cấm đoán mãi cũng khó. Trước khi rời khỏi trường giáo sư còn ngoái lại nhìn lớp của Thủy một lần nữa.

         Giáo sư không biết rằng lớp của Thủy còn có cửa ngách đi ra hông nhà, phía sau. Nàng viết vào mảnh giấy nhỏ đưa cho cô bạn thân ngồi bàn phía trước rồi lom khom lui ra cửa. Nàng dặn bạn xin phép và chép hộ bài. Cô bạn ấy thật tuyệt. Nó luôn luôn che chắn cho nàng, bảo vệ nàng. Nó quá nghèo. Nhiều khi thấy nó ăn uống kham khổ, nàng thường dùng tiền quà sáng cha chu cấp mua thịt và rau cho nó.

         Gió thổi lộng, ở tuổi tràn đầy sức sống như nàng, một cơn gió mát ào qua có thể trút bỏ tất cả những gì mệt mỏi u phiền. Nàng bị một ma lực hút về cái chỗ ấy. Người này nàng gặp chưa lâu. Chàng khác tất cả những vệ sĩ từng quẩn quanh bên nàng. Cái đám đông mờ nhạt rỗng tuếch, vô thực, vô danh ấy. (Tuấn lúc nào cũng hiện lên với vẻ hào phóng giầu sang, nhưng nàng biết trong túi chàng luôn luôn không có xu nào. Thắng lầm lì, có vẻ sâu sắc triết nhân nhưng lại thi đại học ba năm chả đỗ đạt gì…) chỉ có chàng thôi. Nàng nhận ra từ giây đầu tiên khi ánh mắt nàng lóe lên soi trên gương mặt ấy tuy là một giây nhưng nàng đã phải xếp loại gương mặt của con người giản dị sắc lạnh, có phần bí ẩn này. Người nàng run lên khe khẽ. Nàng thấy rõ cảm giác hai má mình ửng lên. Chết thôi! Nếu số phận bắt gặp lại anh chàng này lần thứ hai, ta sẽ chết vì anh lắm! Nàng tự nhủ như vậy. Em cần gì? Anh ta đến sát bên cạnh: Một cốc nước mát. Nàng bối rối đáp, không có chủ ngữ. Dễ thôi. Nào Mạnh – đưa cho em bé một cốc nước xoài. Uống đi em bé. Cái lão này sao mà tự tin đến thế! Nàng cầm cốc nước uống, đưa mắt thầm cảm ơn. Nàng không ưa những chàng trai quá tự tin.

         Tất nhiên là nàng không trả tiền. Chẳng tội gì mà trả. Hai hôm sau, gương mặt nàng cố tình xóa đi mà chưa được ấy, lại bất ngờ gặp lại. Anh ta trố mắt nhìn nàng. Và nàng cũng đứng lặng đi. Nàng rùng mình cảm nhận một cái gì đó mà số phận đang bắt đầu sắp xếp. Hãy đi chơi với bọn anh. Em sẽ thấy cuộc đời sinh viên thật là tẻ nhạt. Chưa hẳn đâu nhé! Nàng chống lại cương quyết. Nhưng nàng biết, nàng sẽ đi theo chàng. Để xem sao! Sự tò mò góp phần thúc đẩy nàng.

         Có lúc bạn bè gọi chàng là Long. Thông thường họ gọi bằng cái tên công ty Hai. Quanh chàng có lúc bảy tám, có lúc tám, chín, có lúc cả đám đông. Ai cũng chịu khuất phục trước anh chàng này. Nội lực của chàng đã chi phối họ và chi phối cả nàng. Ngày đầu, nàng còn có cái bướng bỉnh, cãi lại. Nhưng sau đó vài ngày nàng đã ngoan như một con ngựa thuần phục. Mặc dù, nàng thấy, trong giờ tất cả mọi người đi làm, các anh chàng này vẫn say sưa rượu bia, bàn bạc chuyện làm ăn. Ngôn ngữ của họ nhiều khi cứ lộn tùng phèo, nàng không hiểu. Thế công ty của anh làm gì? Sửa chữa ô tô! Thật chứ? Sao các anh cứ chơi hoài. Người ta làm bằng cái đầu em ạ. Theo anh, em không nên quan tâm đến chuyện đó. Em xinh đẹp, những thằng đàn ông phải dẫn xác đi kiếm tiền về cho em tiêu xài. Không bao giờ em muốn như thế! Tốt lắm. Họ đối thoại với nhau như vậy. Nhưng nàng cũng hiểu lần lần ra sự việc. Lúc nào đó, họ có nói đến những chiếc ô tô. Và nhắc đến cái bãi xe đặt ở phố bờ sông nào đó. Hôm nay tiêu đến thằng nào ấy nhỉ? Long hỏi bạn bè với vẻ thờ ơ. Thằng Thanh. Ừ! Thanh cụt chuẩn bị. Như thế tức là ngày mai, chi phí tại đây, phải do Thanh cụt đảm nhiệm. Mọi thứ tiền phải chi trong ngày đều lấy từ đó ra. Long chủ hội, hay giám đốc công ty Hai cũng là một, sẽ rút tiền từ anh ta như rút trong cái túi của mình. Nhưng Thanh cụt từ sâu trong quán lù lù đi ra. Anh ta thanh minh. Hôm qua chơi đỏ đen, suất ấy đã bắn sang thằng Kiên rồi thôi giám đốc? Thế sao? Long lừ mắt.

         Phải! Sang, anh chàng có vẻ thư sinh xác nhận. Kiên đâu? Một người nắm áo Kiên: Mai tiêu đến mày đấy, chuẩn bị. Biết rồi! Kiên xịu mặt xuống. Lần đầu tiên, nghe chữ tiêu nàng thấy rờn rợn. Người ta chỉ dùng chữ tiêu tiền chứ ai nói tiêu Kiên, tiêu Sang bao giờ. Nhưng rút kinh nghiệm nàng không thắc mắc. Nàng không có và không muốn có quan hệ gì với đám đàn em của Long. Mặc dù chàng đã mua cho nàng chiếc nhẫn tay rút từ trong các túi không phải bằng vải mà bằng người sống ấy.

         Nàng biết mình đã mê Long. Chàng là hiện thân của sức mạnh. Tuy thế, nàng cố gắng giữ mình. Nếu chuyện ấy xảy ra, cha nàng sẵn sàng chém chết nàng rồi rạch luôn một nhát vào bụng mình. Nhưng hôn thì nàng không cưỡng lại được. Lần đầu tiên nàng yêu thật sự một chàng trai. Và khi chàng áp chặt vào người nàng, cảm giác rõ cái khối rắn chắc mạnh mẽ, đàn ông ấy, người nàng nóng rực và lả đi. Con người ý thức trong nàng vẫn còn chút tỉnh táo và cảnh giác. Hôm qua, sau bãi phi lao kia, khi Long đã kéo phựt quần của nàng xuống quá đầu gối nàng mới kịp nhận ra. Đôi chân dài trắng lóa giãy đạp rất mạnh. Không! Không bao giờ. Sự quyết liệt của nàng là có thật. Long phải dừng lại trước ánh mắt đang mê mụ chợt lóe lên rất dữ dội.

         Nhưng hôm nay, chiếc cúp đưa hai người ra ngoại thành. Một lát, họ đã đi bộ, thong thả trên con đê nhỏ có những rặng ổi rợp bóng mát. Không bao giờ và sẽ không bao giờ mãi mãi nếu như nàng, và các bạn gái của nàng, chịu một sự giáo dục hạn chế, lại có thể nhận ra con mãnh thú đang lững thững đi phía trước. Sức mạnh của nó đang tiềm tàng trong dáng đi uyển chuyển, dường như mềm mại bình yên kia. Một lát sau đó, là cuộc vật lộn, cắn xé ngấu nghiến đã diễn ra trên đám cỏ ngàn năm vẫn xanh ấy. Có tiếng thét vang lên, rõ ràng là như vậy. Nhưng sau đó chỉ còn tiếng ực ực như người đang dốc nước uống. Sự kiện số một ấy diễn ra đã căn bản đổi tính cách của nàng. Nàng thương cha nhiều hơn vì cảm giác mình đã phụ bạc, lừa dối. Song nàng lại hăm hở hơn. Cái hăm hở của người đã biết thế nào là cuộc đời. Nàng có vẻ quen với cảnh ăn chơi, với những món đặc sản tốn tiền. Nàng vẫn tiếp tục vụng trộm đi lại và thậm chí có ý moi móc, vơ vét, bù lại cái mà nàng đã bị cưỡng mất. Dòng máu xứ Nghệ trong nàng tự nhủ sẽ phải thắng nhiều hơn cái mình đã bại! Nàng không còn đơn giản lãng mạn như trước. Bởi thế nàng thừa biết công ty, hai tiếng lóng chỉ một lũ ăn cắp chuyên nghiệp quanh những chiếc ô tô đỗ thành hàng của Hà Nội. Tim nàng thắt lại lúc biết tin này. Từ cô gái nõn nà trong tủ kính, nàng đã rơi vào giữa bầy quỷ và giữa hoàn cảnh nghiệt ngã.

*

 

         Sự thay đổi tâm tính của nàng không lọt qua mắt người cha. Ông đột nhiên trở nên mềm mại, đa cảm trước nàng. Tất nhiên ông không biết rõ chuyện gì. Ông cảm nhận sự cứng rắn đang hình thành trong con gái. Và ông đoán, vì thế nó đang gặp chuyện chẳng lành. Ông muốn đóng vị trí của mẹ nó, nên ông gần gũi, cởi mở khiến nàng cũng ngạc nhiên. Rồi hôm sau nữa, nhận được thư người chú trong quê báo tin dữ: Mộ nhà ông bị động! Trước đó một tháng, tự nhiên bị sạt mất một nửa, không phải do phá, do mưa sạt, hay gió, cây cối quật vào. Giữa trưa, giờ ngọ, ngôi mộ tự dưng chuyển mình rồi lở hẳn một góc lớn. Giáo sư là người duy vật, song ông linh cảm thấy một cái gì đó khiến ông bỗng nhiên tan nát, hoang mang. Cha! Cha làm sao? Cha mệt! Để cha nghỉ một lát. Giáo sư không tin có ma quỷ, nhưng ông ngờ rằng mình sắp bị trận đòn của số phận từ đâu đó giáng xuống. Sáng hôm sau nữa, khi dặn con kỹ lưỡng, lại gửi thêm ông bạn thỉnh thoảng ghé qua, giáo sư mang Quang đi theo, cần phải gần gũi quê mình hơn con ạ. Giáo sư buồn bã nói. Đấy là cái gốc! Dân xứ ta tuyệt vời về ý chí. Chỉ có thể ví con người quê ta, đang sống trên những miền đồi khô khát, với dân Tàu, hoặc bộ tộc Giéc-manh của Đức. Cha cảm thấy các con hơi xa cái gốc rồi đấy. Quang đã nghe nhiều lần cha dặn như vậy. Cha đề cao bản lĩnh dân xứ Nghệ gốc lắm. Thậm chí đã có lúc ông muốn khái quát: Những người thật giỏi ở Nghệ Tĩnh có mặt khắp thế giới. Rồi một buổi trưa, tại nhà người họ hàng ở quê, giáo sư Nam mơ một giấc mơ quái đản. Con gì đó to lớn như con khủng long chậm rãi, nhưng dứt khoát đến trước cổng nhà ông. Nó thè cái lưỡi khổng lồ liếm đi cái cổng sắt vững chãi có hai cây cột bê tông. Rồi lần lượt, nó liếm một phát, bay cả cái mái ngói. Ông còn nghe con vật nhai tất cả những thứ vơ được vào miệng, như nhai những chiếc bánh quy. Giáo sư thét lên một tiếng rồi vùng dậy, mồ hôi đầm đìa áo. Sự việc diễn ra đúng như người cha xứ Nghệ ấy linh cảm! Một tai họa lớn đã diễn ra trong nhà ông. Hôm nay tiêu đến nhà con này! Con mãnh thú ấy liếc mắt với vẻ bình thản bảo bọn đàn em. Như thế có nghĩa… bán đồ trong nhà đi chứ còn sao? Phải giấy tờ, phải thông qua bọn cớm kia đấy! Không có gì cả! Làm đi. Một cái hóa đơn ghi tên đồ đạc đánh máy đưa đến giữa lúc nàng đang lơ mơ vì những lon bia ngoại. Nàng giật mình: Không! Bọn chúng lập tức xúm vào. Những cái tát sưng mặt! Nàng kêu lên: Cha ơi! Cha này! Bọn mất dạy dìm nàng ùng ục trong phi nước! Một khi chúng ăn tiêu bằng chính bản thân chúng thì chúng xá gì đến người khác. Nàng buộc phải ký vào lá đơn xin bán gấp đồ đạc. Mọi thủ tục được chạy chọt và hoàn tất. Người con gái tội nghiệp được tống vào viện như một người qua đường bị cảm. Bạn biết đấy, đây là một vụ tống tiền có cỡ.

         Đáng thương thay, người cha đã hoàn toàn thất vọng vì chính điều ông ta tâm đắc nhất. Ông từng nghĩ, dạy con phải đến nơi đến chốn như sự truyền dạy của cha ông với ông. Nhưng giờ đây, hơn một lần ông nghi ngờ việc dạy con của mình. Hình như dạy con không được cứng nhắc. Cũng không phải. Không cứng làm sao uốn được cây con. Hình như không phải lúc nào cũng cứng. Nhiều lúc phải mềm mại. Cũng không phải. Như thế là cải lương ! Hình như không thể dạy bọn trẻ bây giờ bằng kinh nghiệm của thế hệ đi trước. Trẻ con bây giờ không thừa nhận cách sống của ông. Chúng thẳng thừng tuyên bố người có văn hóa là người thua thiệt. Càng không phải. Như thế còn gì là nền nếp, truyền thống. Ông thực sự hoang mang khi đứng trước căn nhà bị dỡ tung đồ đạc khiến nó có phần trống trải. Quang con trai ông giơ tay lên trời thề độc: Sẽ tìm ra và trị quân mất dạy bằng năm bằng mười.

         Ông giáo sư có thâm niên trong nghề, nên học trò của ông nhiều người có chức có quyền. Một câu nói của ông, việc tìm kiếm lũ trộm cắp không khó khăn gì. Lập tức chúng bị tống giam gần hết. Công ty Hai thực chất là tiếng lóng chỉ một hội chuyên nghề ăn cắp đồ đạc trong xe ô tô một thời đậu nhiều trên các tuyến phố. Quang con trai ông đòi trả thù chúng nó một cách tàn độc. Ông giáo sư gạt đi. Người có học không sử xự như vậy. Cao nhân Tắc cao nhân Trị. Ông và các con của ông không thể trả thù một cách ăn miếng trả miếng như thói giang hồ được. Để cho thật bình thản, ông lại đưa các con ra thăm mộ mẹ. Ông thấy lòng mình khác thường, ông không đánh không mắc nhiếc Thủy. Mặc dù ông mường tượng những gì có thể đã diễn ra với con bé. Ông nói năng êm nhẹ hơn với con cái. Nhưng có vẻ ông cũng do dự và rụt rè hơn, cứ như mỗi việc làm ông đều chậm lại để dò đoán tâm trạng con cái. Bọn trẻ vừa đến phần mộ mẹ, Thủy đã sụp xuống. Nó không khóc mà nước mắt cứ chảy từng dòng. Lúc đó gương mặt nó khác thường, như dự báo một điều chẳng lành.

*

 

         Một tháng sau, giáo sư mới dẹp được ý định tìm kiếm trả thù của Quang. Nhưng đó là khía cạnh hình sự của vấn đề. Ngạc nhiên nhất là thái độ của Thủy. Nàng vẫn đẹp không kém phần trước đây. Hơn thế, hình như vẻ đẹp còn được tăng lên nhờ ở chiều sâu của sự trải đời. Theo như nàng nói thì không còn nước mắt để khóc. Mà khóc nữa là ngu! Nàng lặng lẽ, bình thản. Đôi mắt trong và sâu.

         Sáng hôm ấy, nàng ăn mặc và trang điểm kỹ hơn. Vẫn có nụ cười thật tươi trên mặt. Rồi nàng chuẩn bị túi nhỏ, thong dong đi về phía bến xe. Chắc nàng đang đến một cuộc hội ngộ nào đó.

         Đúng thế. Sau vài cây số xe buýt, nàng dừng lại ởphòng trực trạm công an. Thiếu úy trẻ giương mắt nhìn nàng rồi nhoẻn miệng cười trao đổi vài câu. Nàng được phép vào thăm Long. Cửa mở. Cái khối đen mờ mờ ấy chợt có hai điểm sáng long lanh. Nàng nhận ra anh ta bởi đôi mắt sắc và lạnh như ánh chớp ấy! Nàng mỉm cười. Hai mắt lóe lên một chút. Anh có được khỏe không? Nàng bắt đầu hỏi nhỏ nhẹ, hơi thở có vẻ bị ngợp. Anh hơi xanh nhỉ? Mà sao cánh tay lại rộp lên thế kia? Nàng hỏi nhỏ rồi nhìn khắp anh ta, mắt dừng lại chỗ cánh tay. Khi ngồi xuống bên cạnh, nàng đưa bàn tay xóa sạch vết nhọ trên trán Long. Thoạt đầu Long có vẻ ngạc nhiên ngờ ngợ. Nhưng đọng lại sau cùng trên mắt là cái cười có vẻ man dại. Thật giống cái cười của một người điên. Rồi nàng mởtúi. Giống như cái sột soạt khi người đến thăm sắp lôi ra bao thuốc lá, gói quà. Nàng chỉ kéo ra và đặt lên đùi chiếc mùi xoa. Anh ạ, nàng nói nhỏ như sắp thu xếp công việc gì đó. Em muốn nói chuyện với anh, và muốn ghi sổ anh một chút. Một chút rất nhỏ thôi. Chợt mắt nàng ánh lên vẻ giễu cợt. Lẫn trong đó, có những tia sáng lạ, quái đản. Nàng lại kéo phéc-mơ-tuya túi sột soạt. Bình thường, và có vẻ chậm chạp là khác, nàng lấy ra từ trong chiếc túi nhỏ, một con dao dài khoảng một gang sáng lóa. Giống như ban nãy đã xóa sạch vết nhọ trên trán Long, nàng đặt mũi dao rạch hai nhát hình chữ nhân, vết dao sâu được vuốt dài. Nàng cảm thấy mũi dao chạy trên bề mặt khung xương gồ ghề. A… A… con thú ấy bật kêu thét lên. Một giây, máu mới kịp tuôn ròng ròng trên mặt. Tất nhiên, sau đó nàng bị giữ một ngày.

         Hôm ấy chính là ngày đầu tiên trong năm có gió heo may.

Tháng 11 năm 1991

BIA ĐỜI

         Ngày xưa ở đây một gái…

         Bây giờ nếu đến trường đại học X, bạn sẽ được nghe mở đầu câu chuyện này như vậy. Gọi thế thôi, chứ ngày xưa gì. Hai năm. Thế mà thời gian đã phủ lên sự việc vẻ cổ xưa hoang vắng thế nào?

         Họ có bảy người. Nàng ở góc trong cùng của căn phòng. Giống như trăm ngàn ký túc xá khác, phòng của nàng ổn định trong cái thế tạm bợ kiểu nhà ga, trại lính. Bảy cô sinh viên chồn chỗn, xinh xinh. Đứa nào tuổi ấy chả xinh. Cái xinh của da thịt đang vào độ phát triển. Nhưng cũng là bảy cá tính khác nhau. Đứa ưa khoe, đứa trầm lặng, quyết liệt. Riêng nàng được liệt vào loại “hiện đại”. Nếu hạnh phúc như trái chín trên cây, thì chả ai cần mách bảo, nàng cũng sẵn sàng trèo lên để hái. Hôm đầu tiên nàng đón chàng vào chơi, người ta thấy nàng đỏ mặt. Hiện tượng hiếm thấy. Bởi nàng xấu hổ vì cái mùi ký túc xá. Cái mùi sinh viên ấy có thật trong nhà. Lúc đậm, lúc nhạt, lúc thoảng qua, lúc dào lên. Từ cầu thang, bếp điện, từ góc tường nào đó. Lại từ những đồ con Thảo giặt không sạch. Nàng cáu ầm lên. Con bé sợ quá phải vơ vội nắm đồ đi phơi nhờ. Đàn bà cái của khỉ! Cái cần to thì lại nhỏ. Cái cần sạch thì lại bẩn. Lại thêm một điều vướng mắt nữa! Sảnh một tý đi lấy gói hướng dương mà con Phượng dám mắt la mày lém, ty toe, đong đưa! Cái con có thói ranh vặt. Tưỏng hớt tay trên của người ta đấy. Đây là lần thứ hai nàng chứng kiến thói đàn bà ở con bé. Cứ thấy thinh thích ai, y như rằng, tranh thủ tán! Còn lâu nhé. Độ nhạy cảm của nàng khá lắm.

         Nàng lừ mắt cảnh cáo. Con bé biết ý lủi thủi biến mất.

         Nàng “bắt” được chàng trong một đám cưới. Cũng may hôm ấy suýt nữa nàng đã không đi dự. Thấy chàng trong đám đông, dù một lần nhìn nàng đã thấy hay hay. Chàng cao lớn, mắt sáng, mặt vuông, nước da đồng hun. Chàng hiện ra với vẻ hiền lành, tỉnh khô, mắt nhìn lơ láo. Nàng cảm nhận chính xác ngay một điều: trong con người chàng còn rỗng, chưa có hình bóng một cô bé nào. Nàng rất muốn làm một động tác nào đó để lọt mắt chàng. Nhưng nghĩ mãi chả ra. Mà cần quái gì cơ chứ. Nàng bật dậy liều lĩnh xông thẳng vào chỗ chàng ngồi. Với thái độ bạo dạn, tự tin của tuổi trẻ, nàng tách chàng ra, bất chấp có hai ánh nhìn ngạc nhiên. Ngay sát cạnh, nàng chạm vào người chàng. Phút đầu, nàng cầm bánh ăn một cách ngon lành. Nàng không buông mục đích của mình. Sau đó nàng ngước mắt nhìn chàng làm quen một cách thản nhiên. Em đã gặp anh ở đâu đó. Nàng bảo như vậy. Có thể! Chàng gật gật. Nhưng quả thật chàng như buộc phải chú ý đến nhân vật này. Nàng khá đẹp gái. Hơn nữa cặp mắt và trán của nàng thật đặc biệt. Nó thông báo một vẻ đẹp là lạ, khó gọi tên. Ngay lúc đó nàng thừa nhận mình “đo” khá chính xác. Chàng hơn đứt những anh chàng tầm thường khác vẫn xuất hiện hàng ngày. Người nàng chợt nóng ran lên. Tuy thế nàng vẫn chủ động tập trung chiếu ánh nhìn vào chàng. Thằng ngốc cũng thừa biết đó là cái kiểu gì. Chàng đang dài cả chân tay ra từ từ trỏ nên lóng ngóng. Mắt chàng bắt đầu dính vào nàng. Qua câu chuyện tưởng như rời rạc nhưng thực ra không lọt một tiếng nào, nàng biết chàng thuộc dân thể thao. Một tuần nữa chàng sẽ lên đường đi tập huấn ở một nước tư bản. Thế thì còn dịp may. Trời đất đã cho con được gặp anh. Còn anh thì cũng vậy. Đã định không đi dự cưới, cuối cùng có thần linh xui khiến, anh đã đến để gặp em. Ngôn ngữ của họ đã bắt đầu nóng bỏng. Và hai người có vẻ nịnh nhau.

         Vừa lúc đó, chợt nàng có ý muốn làm một việc gì đó để buộc chặt lấy chàng, bắt chàng phải quay lại. Giống như người ta nuôi con sáo phải cho nó ăn cơm với muối. Con sáo có bay ra với trời cao đất rộng rồi cũng phải trở về. Làm con gái khó là như vậy! Phải có lúc để bọn con trai biết mình đẹp đẽ, hấp dẫn. Lại phải cứng rắn cần thiết để giũ mình. Nàng cựa quậy. Sự mềm mại của nàng, chàng đã thu nhận đầy đủ. Mắt chàng sáng lên bối rối. Sự tinh tế ấy chỉ có tác dụng đối với những chàng trai còn “Jin”. Trường hợp này chàng xúc động thật sự. Đúng thôi, vì họ là những chàng trai, cô gái đẹp.

         Dự đoán của nàng đúng. Một hôm đang học, chợt có viên bi giấy lăn trên bàn. “Hạnh ơi, mày có khách”, về tới phòng, nàng ngạc nhiên và mừng rỡ: sáu bảy anh chàng cao lớn, mặc đồng phục thể thao màu trắng còn trong tư thế chân dưới đất, chân ghếch lên xe đua. Họ đẹp đến lóa mắt. Mấy chàng ngốc cứ tròn mắt, há miệng chiêm ngưỡng thân hình trắng trẻo, mềm mại, uyển chuyển của nàng. Kính trọng rồi! Họ đều nghĩ như vậy. Còn nàng càng trở nên tự tin, chủ động. Tuy là một giây, vờ vĩnh hồn nhiên nhưng nàng đã kịp nhận ra sự thật tận đáy mắt của chàng: vẻ bối rối. Đó là cái nhìn kiểm tra! Nàng sung sướng thật sự. Bối rối là trạng thái tình cảm của kẻ yếu trước kẻ mạnh. Nàng mời đám đàn ông trẻ lóng ngóng, cao lớn ấy vào nhà. Họ đứng ngồi chật ních cả căn phòng hẹp. Dân thể thao, anh nào cũng như cao quá khổ. Có cảm giác căn phòng của nàng chợt nhỏ lại như chiếc lồng con. Anh nào đó chạm cả vào rèm cửa. Ồn ào một lúc, như cơn gió cuốn, đàn cò trắng ấy lại nối nhau đi. Anh nào cũng ngoái nửa người lại vẫy vẫy.

         Riêng chàng, lúc chia tay bỗng thấy nàng trở nên tư lự một lát.

         Nàng đang tính toán. Rồi nàng cười, nụ cười vừa ẩn ý, vừa nghịch ngợm: Tối mai, tám giờ, em chờ anh tại cây cầu này, được không. Nhưng anh chỉ được đi bộ thôi. Tại sao? Chàng ngạc nhiên. Nàng lại cười: Cứ thực hiện đi rồi sẽ biết. Xong! Chàng đáp khỏe mà mạnh như quân lệnh rồi đạp vù theo bạn. Thực ra, nàng vừa làm phép thử cho một bài toán. Cách nàng mười hai cây số, chỉ có tình yêu thật mới có đủ sức khiến người ta lặn lội đến chơi. Còn nếu chàng vẫn đi xe đạp, hoặc xe máy thì cũng chẳng sao, miễn là hãy cảnh gỉác. Nàng cảm thấy chàng là người đàn ông hiếm hoi mà nàng đã cố ý bắt được.

         Sáng hôm sau, vừa ngủ dậy, nàng đã ngạc nhiên nhận ra một chú nhện vàng đang từ từ thả xuống giường nàng. Tim nàng đập mạnh. Mày sẽ gặp may đấy. Bọn cùng phòng đều khẳng định. Chẳng biết may thế nào, chứ nàng, trong thâm tâm mơ hồ lo lắng, sắp đến giờ hẹn, nàng càng đứng ngồi không yên. Sự lẩn thẩn đẩy nàng đến trò chơi số phận. Nàng làm hai cái thăm. Một mảnh giấy nàng không viết gì. Một mảnh khác nàng ghi dòng chữ “Anh Tuấn là của Hạnh”. Dòng chữ đó đầy sự khẳng định. Nàng vo viên một cách chân thành. Rồi nàng bỏ vào bàn tay lắc lắc. Run sợ, phấp phổng, nàng nhặt lên một chiếc thăm. Ôi sung sướng quá. Nàng nhặt đúng chiếc thăm “Anh Tuấn là của Hạnh”. Tự nhiên nàng chảy nước mắt xúc động.

         Tối hôm ấy hai người đi bộ qua nhiều phố. Cuộc đối thoại chẳng có vẻ tán tỉnh khiến nàng hài lòng. Chàng không thuộc loại hươu vượn. Kinh nghiệm cho nàng biết đó là loại người kiếm chác. Vì kiếm chác nên mới tán. Chợt chàng nhận xét: Trông em giống một cô phát thanh viên vô tuyến. Nhưng bộ răng của em đẹp hơn. Các cô phát thanh viên chả cô nào có bộ rặng đẹp! Nàng chột dạ: Sao anh tinh thế?

         Cuối chặng đường, họ lọt vào công viên. Hai người ngồi ở chiếc ghế đá khuất. Tự nhiên nàng thấy buồn buồn. Anh có yêu em thật không? Thật! Lấy gì làm chứng? Anh sẽ làm mọi việc cho em hạnh phúc. Nàng nghịch ngợm: Kể cả bây giờ em bảo anh nhảy xuống hồ? Tất nhiên. Thì nhảy xem. Chàng đứng dậy đi ra bờ đá có vẻ sắp nhảy. Nhảy đi! Nàng giục. Tùm! Chàng nhảy thật.

         Chàng lên bờ, quần áo ướt sũng. Không ngần ngại, nàng ôm lấy chàng hôn tới tấp. Phụ nữ hay có cái trò ấy! Đền cho anh mà. Nàng cởi áo của chàng vắt cho khô nước. Nàng còn tò mò vì chàng chẳng sấn xổ đòi gì cả. Mắt nàng lại sáng lên trong ánh trăng: Anh sửa lại cái dây này cho em. Chàng nhìn nàng đầy ngờ vực. Nàng chỉ vào chiếc nịt vú phía sau lưng. Chàng luồn bàn tay cứng như thép vào đó. Một hồi lúng túng không những không chữa được mà chàng còn dứt tung nó ra. Vồ vập và rất thiếu bình tĩnh, không có sức cản nào ngăn được họ. Nàng loáng thoáng nghe rằng: Tập huấn ở xa về chàng sẽ cưới nàng, bố chàng là người có danh vọng. Ông sẽ mua cho vợ chồng nàng một căn hộ ở giữa phố. Giấc mơ ấy thật là đẹp. Nó đang trong tầm tay của nàng.

         Sau đó nàng khóc. Nói cho đúng, mặt nàng cười rạng rỡ nhưng nước mắt thì vẫn tuôn chảy. Trước lúc họ dìu nhau về, nàng nhét tấm khăn ướt sũng màu hoa đào vào túi áo ngực chàng. Nàng chỉ nói một câu duy nhất: Anh giữ lấy cái này để mà liệu cách cư xử với em.

*

         Rồi chàng ra đi gấp gáp. Không tuần nào không có thư của chàng. Những lá thư kể tất công việc mà chàng đang phải làm ở xa. Những miền đất lạ mà chàng đặt chân tới, món quà đầu tiên mà chàng mua cho nàng. Nàng vô tư và sung sướng. Có lẽ vì thế mà da dẻ của nàng trở nên mượt mà, hấp dẫn. Nhưng đấy là tuần đầu thôi. Càng ngày nàng càng thấm nỗi nhớ chàng. Có lúc nàng nói huyên thuyên, lại có lúc lặng phắc, trầm tư. Nỗi nhớ thầm lặng cứ trói xiết nàng, xói lở trong tâm hồn. Nhiều đêm nặng nề, căng thẳng đến phát thét lên được. Nàng đành phải đi chơi cho khuây khỏa. Trong nhiều cuộc đi chơi, có hai lần nàng lặng lẽ đến chiếc ghế đá. Nàng ngồi học ở đó. Mà có chữ nào vào đầu. Nàng tìm kiếm hơi thở của chàng, dấu chân và cả giọt mồ hôi còn vương lại đâu đó trên cỏ.

         Cuối cùng, nàng quay về với bạn học cùng phòng. Làm lành và vào với chúng nó. Dăm ba ngàn bạc, mua vài con cá, nấu chua xì xụp với nhau. Ở đó nàng bắt gặp một sinh viên khoá trước, ừ thì tình yêu bếp điện cho vui. Vài cái đụng chạm, bỡn cợt mất gì! Nàng để cho anh bạn đưa đi xem phim. Trong lúc tranh tối tranh sáng, nàng nhận ra nụ hôn vụng trộm của anh bạn. Thì cứ để yên. Nhưng khi anh quờ tay ôm eo nàng như các đôi khác thì nàng dứt khoát gạt ra. Anh bạn không đủ sự hấp dẫn. Sự nghèo nàn về thể chất và tinh thần của anh chàng ấy sớm làm cho nàng chóng chán.

         Rồi một hôm, trong cuộc đi chơi lơ vơ dọc phố, nàng lọt mắt người đàn bà chủ hiệu uốn tóc. Đó là người đàn bà da dẻ trắng hồng, hấp dẫn nhưng có cái nhìn khinh bạc. Khi chị ta vờn cái nhìn vào nàng như nhìn một con giống, nàng bực mình chiếu thẳng mắt nhìn lại. Chợt bà ta đổi mặt rạng rỡ: Biết không? Thân thể em có giá lắm đấy! Nàng vặc lại một câu ngoa ngoắt rồi bỏ đi. Nhưng hình như nàng cũng thích. Hôm sau, nàng chợt có ý muốn đến làm quen với người đàn bà từng trải đó. Quả nhiên khi đi quá, người đàn bà gọi nàng vào chơi. Thế là họ quen nhau.

         Bao nhiêu là câu chuyện dông dài của phụ nữ. Từ giá vàng, đô-la, đến lão hàng xóm đêm chả ngủ được chạy ra cửa, sờ vào màn quơ cô gái ngủ trông hàng. Nàng manh nha một điều: mụ yêu tinh này lại đâm sướng. Một con nhưng nhiều chồng. Mỗi ngày một thằng vác thân đến hầu hạ. Tổng số sự sung sướng mụ hưởng phải gấp trăm người khác! Chả dại gì em ạ. Thuỷ chung là cái cóc gì. Nàng cũng chợt nghĩ: Cái cần giữ ta đã hiến cho chàng còn đâu? Ngay tuần sau, tại hiệu uốn tóc này, nàng gặp lại anh chàng đi chiếc cúp đỏ. Câu lạc bộ với nó một chút em ạ. Có ai biết và có mất gì? Thằng bé được lắm. Có thể! Nàng nghĩ một cách thận trọng. Nhưng rồi nàng vẫn nhận lời theo hắn đi xem.

         Xem phim xong, hắn đưa nàng đi ăn. Món ăn lạ mà đời sinh viên chưa từng biết đến. Rồi hắn đến một cửa hiệu mua một chiếc đồng hồ lắp vào cánh tay nàng. Cuối cùng hắn đưa nàng đến một cái khách sạn hoa lệ. Nàng ủ rũ đứng chờ. Hắn đang mua phòng. Hắn cần một tiếng nhưng trả tiền một ngày đêm. Chủ khách sạn cười với hắn rất tươi. Khi đứng trước mặt nàng không biết hắn đùa hay thật: em có muôn chủ khách sạn đến hôn lên bàn chân em không? Anh có thể làm điều đó. Nàng không nói gì. Nàng biết điều đó sắp xảy ra. Khi cửa phòng mở, y như nàng dự đoán. Tự tin và đàng hoàng, hắn lột áo quần nàng từng cái một. Hắn ngắm, hắn sờ soạng, thưởng thức nàng tỉ mỉ, kỹ lưỡng như một kẻ sành sỏi.

         Nàng âm thầm lo lắng và sợ sệt. Nhưng cũng chỉ được chốc lát. Ngọn lửa trong nàng cũng ngụt cháy. Khi đã mãn cuộc, nàng được trả về trường. Mười một giờ đêm. Bọn cùng phòng vẫn thức. Rất may, bọn chúng hờ hững với nàng như không có chuyện gì xảy ra.

         Dứt khoát thôi! Nàng tự nhủ. Chàng lại viết thư về ráo riết và cháy bỏng! Nàng ôm lá thư vào ngực khóc nức nở. Nàng trách mình hư đốn, nàng ân hận. Nhưng chỉ được mươi ngày, nàng lại thèm muốn được đi ra phố. Thèm bước qua một lần cửa hiệu uốn tóc. Và thế là nàng lại sửa soạn quần áo, đánh qua phấn rồi đi ra ngõ.

         Chính nàng cũng không ngờ rằng sự thỏa hiệp ở nàng lại lớn đến như vậy. Nàng không chống nổi sự cám dỗ. Nàng đã nhận lời đi chơi với một người đàn ông đứng tuổi. Nàng biện lý: có mất gì? Có ai biết! Hơn nữa, phần giá trị nhất của đời người con gái, chàng đã hưởng trọn vẹn đó thôi! Tất nhiên nàng tự nhủ! Lần này nữa thôi. Có chém đầu nàng cũng không lặp lại.

         Người đàn ông này cũng rất mềm tính. Nàng phát hiện ra rằng: đàn ông có tuổi thường chiều chuộng rất dễ chịu. Cũng đi xem, rồi đi ăn. Cũng mua vé một giờ ở khách sạn. Nhưng cái ông này bình tĩnh đến dễ sợ. Đi ăn cắp mà còn chậm chạp, thung dung. Nàng bỗng sợ gặp ai đó quen biết. Một con bé bạn học đến thăm người nhà ở khách sạn chẳng hạn. Nhưng rồi nàng thoát khỏi cảnh phơi mặt ra một cách nhanh chóng. Khi cửa phòng đóng lại, nàng đỡ run hơn. Vẫn chậm! Nàng oán lão già. Nàng nhìn thẳng vào mặt trách móc. Lão nở nụ cười dịu dàng động viên nàng. Quả nhiên, bù lại sự chậm chạp hắn làm cho nàng phát điên lên. Hắn đủ mẹo mực phát động sự cuồng nhiệt tiềm ẩn trong nàng. Lên bờ, xuống ruộng, nàng lăn lộn trong sự đê mê đầy tội lỗi.

         Đúng là vẫn không việc gì. Không có tăm tiếng, không có bóng gió dư luận. Bọn cùng phòng vẫn có đứa yêu, đứa ghét nàng. Cảm thấy sự nguy hiểm rất có thể xảy đến, nàng thành thật quy thuận. Quy thuận dứt khoát. Hai tháng sau cùng nàng làm được điều mình đặt ra. Nàng sống ngoan ngoãn và trong sạch. Nàng đếm từng ngày chờ đợi chàng. Nàng đoạn tuyệt được với hiệu uốn tóc. Cái chỗ ấy giống như tổ quỷ vậy. Không ai biết nó là cái gì.

         Một tuần nữa chàng về thì nàng nhận được bức điện: em và gia đình sẽ đón anh ở sân bay. Nàng run rẩy vì sung sướng. Tối hôm đó, sau bữa cơm sinh viên đạm bạc (mà nàng biết sẽ sắp thoát khỏi) nàng ăn mặc gọn gàng tươm tất. Nàng sẽ xuất hiện trước bố mẹ chàng một cách đường hoàng. Nàng gấp bức điện cho vào túi áo rồi lao ra cửa. Ngay lúc đó, nàng chợt cảm thấy mình hạnh phúc quá. Nàng thương cho lũ bạn ở phòng. Ngày mai nàng sẽ làm lành với con Phượng. Nói cho cùng nó cũng có lỗi gì đâu?

         Mẹ chàng ra mở cửa. Cháu là Hạnh? Dạ. Nàng run rẩy đón nhận sự niềm nở của bà mẹ. Nàng lao vào nhà như đứa con thật sự. Nàng nhìn bao quát: nhà rộng và sang. Nàng hình dung nơi đây con nàng sẽ ra đời. Mẹ chàng cởi mở và đầm ấm. Từ cái nhìn, bà đã âu yếm thừa nhận Hạnh. Mẹ chàng rót nước cho nàng uống. Bà cũng cảm thấy mĩ mãn. Bà bảo: còn thằng em nữa. Nó đi học chưa về. Bố thì bận lắm, hôm về đúng giờ, có hôm đến khuya. Bà mẹ giới thiệu gia đình với Hạnh trên tấm ảnh treo tường. Bố đây! Bà nói. Nàng lạnh toát người. Đó chính là người đàn ông đã tư tình với nàng. Không còn lẫn vào đâu được nữa. Nàng nhận ra khuôn mặt ông vì nàng đã nhìn kỹ lúc bực bội. Toàn thân nàng tái dại. Không kịp nói một câu có đầu có cuối, nàng vội vã bỏ chạy khỏi ngôi nhà. Bà mẹ sửng sốt không hiểu vì sao cả.

         Đúng tuần sau chàng về. Tất nhiên là chàng đến tìm nàng. Nhưng, giá như đừng cố công chờ đợi, cố công tìm kiếm đến một vài lần, biết nàng đi trốn, không gặp thì thôi. Và giá như lần ấy thoáng thấy bóng nàng, chàng chạy theo, đừng đuổi lên gác tư, đến cùng đường, nàng đã lao mình bay vào khoảng không. Mẹ chàng và chàng hết sức đau đớn. Họ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra. Còn bố chàng vẫn mặc nhiên. Vì sau lần vụng trộm ấy ông chưa gặp nàng lần nào. Có thể như thế lại hay. Nàng mãi mãi đẹp như sao sa trong chàng. Đó là niềm an ủi cuối cùng với một số kiếp bất hạnh.

*

         Cách đây hai ngày, bà cụ bán nước trong trường vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa kể cho tốp sinh viên mới:

         Ngày xưa ở đây…

 Tháng 4 năm 1992

 

 

 

ĐÙA CỦA TẠO HÓA

         Quê hương tôi, từ xưa có câu: Trai núi Để, gái làng Đông. Lúc vui các cụ chỉ nói vắn tắt: Con gái ở đó đĩ thõa. Tôi không đồng tình với cái nhìn dân dã đó. Thực chất là nhựa sống tràn trề trong cơ thể các thiếu nữ. Bản năng sinh tồn dư dật của họ. Ở cái làng thật lạ. Cô gái nào cũng xinh đẹp, đẫy đà, hấp dẫn một cách gợi tình.

         Tôi có quen Loan, một cô gái làng Đông điển hình. Từ những ngày còn nhỏ, cô đã trội hẳn so với bọn con gái cùng lứa tuổi. Hình hài cân đối, trắng trẻo, cô còn hơn đứt bạn ở đôi mắt xanh nhìn mãi không tới đáy! Con bé sẽ sung sướng. Nhiều người nghĩ như vậy. Cũng không ít người ngờ vực. Hình như cái gì “quá” cũng hỏng! Mặc cho mọi lời bàn bạc, Loan vẫn lớn lên xinh đẹp, tự nhiên, bình dị như cỏ cây. Mẹ cô nhiều lúc nghe ngóng qua thiên hạ, mà nghi ngại. Con bé nó làm sao ấy! Có lần nó ra thị xã, bà còn lấy than bôi vào mặt. Cô Loan cười rất tươi, nhưng trong bụng thì chê mẹ lẩm cẩm. Ai lại thế! Nhưng bà cương quyết hơn trong việc bắt con bé mặc áo vá khi đi làm dân công đắp đê.

         Con sẽ sung sướng cho mẹ xem! Loan đinh ninh như vậy. Cô xinh đẹp mới là một điềụ kiện. Cô còn cảm thấy như vậy nữa. Chắc chắn là khác! Bao nhiêu lần chơi trò công chúa, vô tình nhưng cô đều bắt thăm được cả. Vận may có dành cho đứa nào trong đám đông ấy đâu. Và ngay lúc này thôi – Loan đã hoàn toàn là một thiếu nữ, cô đang đi trên đường cái. Trước mặt cô là bóng người không rõ đàn ông hay đàn bà. Cô mỉm cười và chơi trò may rủi. “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều…bài lạy khá quen thuộc của cô. Cô nguyện thầm: Nếu người đang đi về phía ta là đàn ông, thì các đấng thần linh trên cao xa hãy chứng giám cho con được sung sướng… Con cũng đoán cái bóng đang đi là đàn ông. Sau đó cô choàng mở to mắt. Bóng người mà cô đoán đã tới gần. Nhưng sao thế này: Con người đi qua mặt cô có nét của đàn bà trên mặt. Nhưng chân tay và dáng đi thì không! Chợt cô hoang mang… Đây là một người đàn ông! Tóc, gò má, dạng đi rắn rỏi. Nhưng ngực ông ta lại lùm lùm thế kia? Loan ngoái lại, cứ cố khẳng định mình đúng.

         Càng ngày, càng có người xí phần Loan cho con em mình. Họ vào tận nhà làm quen. Họ đánh tiếng…

*

         Trong số những kẻ đánh tiếng dành Loan cho con mình có bà Thuận, vợ đại tá Lý, liệt sĩ. Nói đến bà Thuận vùng tôi ai cũng biết. Đó là người đàn bà đẫy đà, da dẻ tươi tốt, tính tình xởi lởi. Bà nổi tiếng bởi đẹp, bởi là vợ đại tá. Ngày đó, vùng tôi chỉ mỗi ông Lý là cán bộ cấp cao quân đội. Bà còn có tiếng bởi sự gia giáo, thủ tiết thờ chồng, dạy thằng Tuấn trưởng thành, thằng Tuấn, con trai của bà và ông Lý đẹp như cái mầm cây. Tuổi con nít, Tuấn vừa có dấu hiệu lêu lổng, bà đã phải nhờ ông chú đánh cho nó một trận. Trận đòn quá tay, hơn với sự hình dung của bà Thuận. Thành thử thằng bé chết khiếp. Bà Thuận giận ông chú, nhưng bấm bụng chịu. Cứ thế, Tuấn lớn lên rồi vào đại học. Cha là liệt sĩ, Tuấn được miễn giảm nghĩa vụ. Bà Thuận đánh tiếng là đánh tiếng cho Tuấn. Một thanh niên đẹp trai, cao lớn lại xuất thân từ gia đình có nguồn gốc chính trị và kinh tế vững chắc như thế thì cả vùng ai còn bì kịp.

         Bà Thuận cũng tin như vậy. Do đó, bà tìm hiểu tính tình con bé. Biết nó tốt bụng, dễ tính cũng là được. Ngủ dậy muộn, thì chả lo. Miễn có người con gái khỏe, tốt tính, về nhà, bà rèn sau. Một hôm bất ngờ bà gặp Loan đi cùng đường. Bà biết nó, chứ nó đâu biết bà. Bà chủ động lùi lại phía sau để xem người của con bé. Bà nhìn kỹ vai, hông, chân con Loan. Dáng đi của con bé thật mềm mại, uyển chuyển. Eo thắt lại, nhưng đến mông thì phình ra, tròn trịa gọn gàng. Với con mắt thật tinh đời, bà biết đây là con mái tốt. Da dẻ mát mẻ, trắng trẻo, không vướng víu, gò bó thì có lợi cho việc sinh nở.

         Nhưng tận sâu trong cảm giác, bà Thuận vẫn còn lấn cấn. Có một cái gì đó chưa được rõ, chưa chắc chắn. Là người đàn bà sắc sảo, giỏi giang, tự tin vào hiểu biết của mình, bà cả Thuận nhận ra rằng, chưa nên vội vàng kết luận.

         Thiên hạ đồn đại không sai: bà Thuận quả là đáo để. Bà vừa có một quyết định táo bạo: Phải xem lại người con bé một lần nữa. Xem trong tư thế con bé trần truồng: chủ yếu là muôn xem ngực nó. Đối với bà, ngực chứa toàn bộ cái tốt xấu hay dở của một đứa con gái. Nếu ở ngực khoảng cách hai vú hẹp thì người đó sức khỏe yếu. Khoảng cách giữa hai vú rộng, đầu vú vểnh ngang thì cô gái ấy khó dạy như con ngựa bất kham. Còn nếu hai đầu vú nằm ngay ngắn chĩa thẳng vào mắt ta – cô gái ấy là vàng. Người như vậy sẽ trung thực, ngay ngắn, không biết làm điều xấu, điều ác. Ấy là chưa kể đầu vú to hay nhỏ, đỏ hay đen, tròn hay méo. Đấu vú nhỏ, tròn, màu hồng, cô gái ấy dẻo người, mềm tính, nuôi con khéo léo. Vô phúc cô nào đầu vú đã đen lại to, lại méo, tính tình vụng về, đụng đâu vỡ đấy, làm gì hỏng việc ấy, nuôi con không sài đẹn cũng chậm lớn. Cô gái nào như vậy, mặt có đẹp như vầng trăng cũng xin vái chịu! Bà Thuận đinh ninh điều mình nghĩ là có thật. Hình như bà ngoại dạy bà thế, vì bà cũng chiêm nghiệm như thế. Rồi bà xuống làng Động gặp bà bạn. Bà này là dì của Loan. Vừa nghe xong, người bạn của bà Thuận trố mắt ngạc nhiên. Nhưng bị nài, bị ép, lại nể bạn, dì của Loan cũng thuận lòng.

         Hôm ấy, Loan sang nhà dì giúp sửa lại chuồng lợn. Gần trưa, nhỡ tay dì làm đổ cái vại đựng nước tiểu. Cô bé kêu rú lên! Nước tiểu bắn tung tóe vào cả người dì và cháu. Loan vẩy tay, ái ngại nhưng cười rất vui. Nghe lời dì, cô xăm xắn đi ra ao để tắm gội.

         Vườn vắng lặng. Ao nước trong vắt. Chỉ có con chim vàng anh nhảy nhót trên cành xoan. Loan chợt mỉm cười khi thấy khuôn mặt mình in trên mặt gương sáng loáng. Cô đưa mắt nhìn quanh trước khi lội xuống nước. Một thoáng nghi ngại lẫn thích thú. Ùm! Nước bắn lên tung tóe.

         Từ sâu trong bụi mía, tim bà Thuận đập thổn thức. Mặt bà có vẻ đăm chiêu. Bà đã thấy được tất cả những gì cần thấy. Con bé có đủ ba cái đen và cả ba cái đỏ. Lông mày nó đen thật, môi nó cũng đỏ thật. Các cụ bảo như vậy thì tốt lắm. Bà thấy yên tâm về Loan. Nó cũng chỉ như bà ngày xưa là cùng! Có khi còn thua kém. Và hình như bà Thuận thấy nao nao. Bà thấy mệt mỏi và buồn xỉu. Từ sâu trong cõi vô thức bà chợt thấy mênh mang… mênh mang…

*

         Đại tá Lý từng là người đàn ông mẫu mực về mọi phương diện. Thân thể ông cũng cường tráng khó ai bì. Và như thế ông cũng mới lấy được chị Thuận đẹp có tiếng, hai người từng có trên mười bảy năm đầy đặn, hạnh phúc không chê vào đâu được. Sau khi chồng hy sinh, có đau đớn, có tự hào, nhưng bà thuận gầy rộc đi. Phải mất một năm, bà mới gượng dậy được. Giống cái cây bị bão quật, bà mọc lại cành, trổ hoa, tươi xanh. Thời gian ngắn, bà lại lấy lại phong độ cũ: đẫy đà, hồng mượt, ung dung, đĩnh đạc. Bà lại đẹp vẻ đẹp riêng: hấp dẫn và bề thế. Phảng phất nét quý phái. Nhưng đây là bề ngoài. Số phận lại đặt cược để trêu chọc. Bốn mươi tuổi, bà Thuận đang bước vào độ tái xuân. Toàn bộ sinh lực được huy động, được sử dụng. Thành thử thân thể bà càng đẹp ra, hai mắt long lanh. Nói theo lối nói của nhà sinh học thì đó là tiếng hót của con gà mái, tín hiệu phát ra để đi tìm tín hiệu!

         Ngoại tình thì không bao giờ. Dứt khoát là như vậy. Nhưng bà vẫn mơ ông Lý về. Bà lại ôm chầm lấy ông bằng cảm giác da thịt thật sự. Cả khối người, hai vòng tay, đùi ngực va chạm, xoắn xiết lấy nhau. Bà tận hưởng cái tuyệt diệu của tạo hóa: cứng và mềm, rắn và nhũn, tung và hứng, trên và dưới, tấn công và bị động. Nhiều lúc người đàn bà hổn hển, mồ hôi đầm đìa với cuộc tình mà tạo hóa nào đã buông tha! Có sự tính toán nào cân đong nổi được sự mất mát này chăng? Và bao giờ cũng vậy, tưởng hết tột đỉnh sự mãn nguyện, số phận lại thức tỉnh bà. Có lẽ phải nửa phút gì đó, bà Thuận mới ngơ ngác nhận ra mình vừa qua giấc ngủ. Bà giật thót tim khi thấy bóng người đàn ông lù lù tiến tới. Những bốn người. Thì ra họ có mặt trong nhà từ lúc nào đó. Bốn bóng đen im lặng từ từ tiến lại. Đồ đểu! Đồ ăn cắp. A…! Bà kêu lên khiếp đảm. Nhưng ngay lúc đó, bà biết mình nhầm. Không có ai khác ngoài bà. Bốn cây cột nhà lặng lẽ, vô tri vô giác được rọi qua ánh trăng xanh lét mồn một.

         Đó là đêm! Còn ngày, bà lại nghiêm ngắn chững chạc, bề thế. Đố thiên hạ bắt gặp bà có ánh mắt lẳng lơ, đa tình hay một câu đùa sàm sỡ. Trừ một lần. Tất nhiên là không ai biết. Đêm trăng vằng vặc! Ôi những đêm trăng chết tiệt bao giờ cũng gợi tình, hướng người ta, bao che và dụ dỗ người ta vào chuyện nhố nhăng. Thoạt đầu tiếng sáo trúc thoang thoảng. Có lúc nghe rõ. Có lúc tiếng sáo lại chìm đi. Hình như theo gió, tiếng sáo lại hiện lên hết sức vu vơ. Bà thừa biết tiếng sáo ấy của ai! Lão Hoành thợ đấu. Một gã tay vo miệng lốm, dỡ nhà để ăn. Nhưng người lão đậm chắc như được làm bằng lim bằng sến. Có lần nào đó, bà Thuận trông thấy hai chân lão đen dài, chắc nịch, đánh đều đều trên đường. Đúng như vậy, có một lần! Lão Hoành ở một mình, không có vợ, nhưng đã nằm với khối đứa con gái dễ dãi đĩ thõa trong làng. Cũng là một thằng mất dạy! Tiếng sáo lại hiện lên hết sức vu vơ.

         Mặt lão Hoành thì xấu, đầu óc lại đần độn. Nghe đâu đi lính, tập bắn súng mãi không thuộc, phải loại về. Đúng là thứ đầu óc ngu si tứ chi phát triển. Nhưng sao nó lại biết thổi sáo? Như thế chắc gì nó đã ngu? Những kẻ biết thổi sáo là những kẻ phong tình. Cái khoản kia hắn lại vung vãi cho thiên hạ. Gió chợt đưa tiếng sáo dội lên vu vơ nhưng da diết một cách kỳ lạ. Thậm chí có thể tưởng tiếng sáo được thổi ngay ở đầu ngõ. Ngọn cau gặp gió chợt tung đành đạch. Trăng vẫn xanh lét. Bà Thuận nhổm dậy. Bà đi ra ngõ. Tất nhiên vẫn đàng hoàng, chững chạc. Có lẽ phải nhờ cái lão này sửa lại cho góc nhà bị dột! Nhưng sao lại đi đêm hôm? Ban ngày gặp hắn làm sao được? Bà Thuận vững dạ hơn khi tìm được cái lý để đàng hoàng.

         Bà đã đi vào sân nhà lão, mạnh dạn và dứt khoát, bà đến để có việc thuê lão Hoành. Bà đã thấy lão. Cái khối đen chắc dài ở chiếu. Bà đã chạm phải cái mùi đàn ông, quen thuộc, nhưng hơi gắt, đậm, của lão. Có gì không chị? Tôi nhờ anh sửa cho cái mái nhà bị dột. Lão Hoành cười, hàm răng trắng nhởn, đần độn. Mùi đàn ông trong cơ thể sến lim của lão Hoành lại bốc lên. Một phút bối rối. Nhưng bản lĩnh và đức hạnh của bà Thuận chợt lên tiếng. Thỏa thuận xong với lão, bà Thuận bước từng bước dứt khoát ra ngõ. Đi như trôi về nhà, tiếng sáo của lão Hoành lại vu vơ vu vơ đến phát điên lên được. Sao đàn ông mùi mồ hôi giống nhau thế? Từng có lúc bà úp mặt vào ngực ông Lý. Cái mùi nồng nồng quen quen thấm sâu vào bà, có lúc khó chịu, nhưng bây giờ, bà đang nhớ, thậm chí đang khổ sở, vì nó.

         Sáng hôm sau, lão Hoành đến. Bà Thuận vẻ mặt lạnh tanh kẻ cả. Bà mở cửa cho gã đàn ông vào. Bà đang cố chống lại chính mình. Nhưng cái mùi ấy “mùi” con đực chính cống lại phảng phất ngay sát bên cạnh. Trái tim bà như bị vực dậy, được khởi động. Thân thể bà nóng dần lên. Bà cầm lấy tay lão tự nhiên đến vô ý thức. Chỗ này này. Rồi bà kéo lão vào sâu nữa gian trong. Nơi tối tăm và sực mùi ẩm mốc, mùi gỗ mục. Vai bà chạm phải lão. Sự đụng chạm ít ỏi ấy khiến bà thở dốc! Cái mùi đàn ông đậm một cách gay gắt. Vú bà chợt quệt vào cùi tay lão Hoành. Cái cùi tay rắn như sắt ấy tạo một sự dễ chịu. Bà muốn buông thả theo dòng nước. Tạo hóa vẫn không tha, vẫn nhử mồi vờn bà, giễu cợt và hành hạ con người. Tim bà đập mạnh. Hơi thở ngợp trong lồng ngực. Hình như lão Hoành ngửi thấy cái mùi ấy. Mùi con mồi chín nẫu. Lão quay lại cười nhăn nhở: cho rờ cái! Lão nói rồi cầm ngay lấy tay bà Thuận. Lập tức bà Thuận tỉnh như sáo: Ấy chết… đừng có vớ vẩn…

         Chính đêm đó, không kìm được, bà Thuận ôm gốc cột khóc vật vã. Chính nó tiễn đưa bà êm đẹp không tai tiếng gì qua tuổi tái xuân rực rỡ, cháy đỏ.

         Thêm hai tuổi, bà Thuận chợt thấy nực cười! Bà đã qua hẳn dòng sông dục tình cuồn cuộn tạo hóa bày đặt để đùa giỡn với con người. Kể từ đó, bà thấy thanh thản, nhẹ nhõm. Bà tự hào về mình. Trong vùng người ta đua nhau ngợi khen bà trong sạch thủ tiết với chồng. Bà mỉm cười thừa nhận sự danh giá đó. Bà vẫn giữ phong độ ung dung thư thái.

         Và lúc này, bà đang kén vợ cho thằng Tuấn.

*

         Nghỉ hè, Tuấn đang giội ào ào nước lên đầu, mẹ đủng đỉnh bảo:

         –        Tối nay con có việc đi với mẹ đấy. Không nói nhiều và không phải bàn. Bà ra lệnh để Tuấn biết thu xếp. Anh chàng sinh viên đẹp trai ấy ngớ ra.

         –        Đi đâu hả mẹ?

         Đủng đỉnh nhưng vẫn tươi tắn, bà mẹ nhắc lại:

         –        Đi có việc.

         Bỏ mẹ! Tuấn thầm chột dạ. Tối nay anh đã có hẹn. Nói dối mẹ chăng? Không được! Có trời cũng không lừa được bà. Rồi anh tự thu xếp: Đầu tối đi với mẹ. Sau một lát ở đó, anh sẽ đến gặp người bạn tình của mình. Người bạn tình anh vừa biết tên. Sốphận run rủi cô đến với anh. Tuy mới gặp nhưng hai cái nhìn đã nóng bỏng như có lửa. Cô thổn thức, nhưng đầy sự e ngại. Đấy mới là cuộc gặp chủ yếu của đợt nghỉ hè này. Niềm vui, sự hy vọng của anh. Còn mẹ! Chiều bà thôi, ta sẽ thu xếp sau.

         Hôm qua, đang trên đường về nhà, tự nhiên nghe đánh đoàng một cái. Quay lại Tuấn đã gặp cô thiếu nữ ấy cúi xuống bên lốp xe bị nổ. Anh sửng sốt: quê anh sao lại có người hoàn hảo như vậy! Gương mặt trái xoan, mái tóc mềm bay lõa xõa. Vẻ đẹp trẻ trung và hoàn hảo. Một thoáng lưỡng lự, Tuấn xuống xe để giúp đỡ cô bé. Cái nhìn đầu tiên khiến Tuấn không thể nào bình thường được. Có thể vì cái nhìn mạnh như một tia chớp, gây sự bùng nổ khác thường trong anh. Cái nhìn ấy sáng lóe lên, e lệ, có chứa cả thiện ý lẫn sự rụt rè bối rối. Sau đó Tuấn đã vận động cô gái ngồi lên sau xe. Anh đã làm công việc cồng kềnh phức tạp chưa ai dám. Vừa dắt xe, vừa đi xe, vừa lai cô gái. Hai người đã “chết” vì nhau từ phút đầu tiên. Tình yêu của tuổi trẻ là như vậy. Nó bốc cháy tự nhiên và được thừa nhận từ phút đầu. Tên em là gì? Tuấn hỏi cô gái. Thanh! Cũng rụt rè, nhỏ nhẹ cô bé đáp. Hình như cô vẫn giữ lại một sự phòng thủ hờ hững. Em ở làng nào? Làng Xuân. Cô gái đã nói dối Tuấn. Khi đưa tới làng Đông thấy cô dắt xe vào ngõ có cây gạo, Tuấn mới mỉm cười nhận ra sự nói dối của cô gái. Tuy thế, cô vẫn lặng lẽ gật đầu, hai mắt long lanh đồng ý cho anh chàng tới chơi. Suốt một ngày đêm, Tuấn hồi hộp chờ đợi cuộc gặp lại với Thanh.

         Bà Thuận cũng đưa Tuấn xuống làng Đông. Khi bà rẽ vào ngõ có cây gạo anh đã chột dạ. Không có lẽ cô Loan mẹ giới thiệu lại cùng nhà với Thanh? Trớ trêu thay, tạo hóa lại một lần nữa tạo nên sự trùng hợp ngẫu nhiên đến lạ lùng. Khi bà mẹ trong nhà gọi Loan bê nước cho khách thì tim Tuân như ngừng đập. Cô gái sẽ xuất hiện trước hai mẹ con Tuấn là ai đây? Loan hay Thanh? Rồi cô gái từ từ đi ra. Chính là Loan. Bối rối, nhưng sung sướng chan chứa trong ánh nhìn, cô bé lướt mắt qua Tuấn lễ phép chào mẹ anh, khoảng một phút gì đó, lui vào nhà. Thì ra Loan nói dối Tuấn. Tên cô không phải là Thanh.

         Sau này khi thuộc về nhau, Loan nói: Em yêu anh ngay từ lần gặp đầu tiên. Tuấn đáp: Anh cũng thế. Họ vùi vào nhau. Tuấn tận hưởng sự thơm tho tuyệt vời của trái đời dành cho anh. Hôn lên mặt, lên mắt, lên tóc, vào gáy, vào ngực. Tuấn vẫn thấy khao khát, chưa thỏa. Anh ôm riết lấy Loan vào lòng. Hình như anh cảm thấy sẽ có một lực lượng nào đó sẽ cướp mất Loan của anh. Vì thế, phần nhiều thời gian anh dành cho Loan. Anh còn có ý tranh thủ, gấp gáp tận hưởng sự ngọt ngào có được từ Loan.

         Mặc Tuấn vòi vĩnh được thỏa mãn cái việc ấy. Loan cốc vào đầu giễu cợt, cảnh cáo. Anh vẫn như con thú say máu đến ngơ ngác. Lần đầu tiên bà Thuận cáu với Tuấn:

–        Con phải sống cho điều hòa đúng đắn. Dạo này mẹ thấy con có vẻ buông thả!

         Bà Thuận gay gắt cảnh cáo Tuấn. Yêu con, bà lo cho nó thật sự. Thân thể thằng bé hao đi đến một nửa. Bà xót xa chăm sóc Tuấn. Có đêm bà còn lặng lẽ ngồi bên đứa con trai, dùng khăn chấm từng giọt mồ hôi cho nó. Chợt bà nhận ra một điều: sự hấp dẫn chết người của con Loan làm hao kiệt Tuấn chứ ai? Mặc cho việc chuẩn bị đám cưới vẫn tiến hành, trong sâu xa, bà Thuận chợt thấy con Loan như mụ phù thủy vậy. Chính nó, cái con bé bà đã lựa chọn ấy, hãm hại thằng Tuấn chứ ai!

*

         Đám cưới khá to.

         Người giúp việc cuối cùng ra khỏi nhà trả lại sự vắng lặng vốn có. Tuấn rửa mặt mũi, chân tay sắp sửa đi ngủ. Bên trong cánh cửa buồng kia Loan đang chờ anh. Giới hạn cuối cùng bao nhiêu lần định phá mà không phá được đang chờ anh. Sự nguyên vẹn trinh trắng của người vợ yêu quý đang chờ đợi. Giây phút đẹp nhất trong đời một con người đang đến từ từ trong đêm nay. Loan sẽ không cốc vào đầu, hoặckhông cưỡng được nữa. Hai người chỉ chờ đợi đến nín thở giây phút này thôi.

         Phơi khăn mặt, giục mẹ đi ngủ, Tuấn vừa bước vào hướng buồng thì có tiếng gọi:

         –        Tuấn.

         –        Dạ.

         –        Lại đây.

         Tiếng gọi nghiêm trang dứt khoát của bà mẹ khiến Tuấn như sực tỉnh.

         –        Có gì à mẹ.

         –        Có.

         Mẹ anh vẫn ung dung thư thái ngồi trên sập gụ. Bà chưa có ý gì đi ngủ. Tư thế của bà chuẩn bị cho cuộc nói chuyện dài. Tuấn có vẻ sốt ruột.

         –        Ngồi xuống đây.

         Mẹ anh nói bình tĩnh, đầy quyền uy. Bà vừa nhai trầu, vừa ngẫm nghĩ, vẻ mặt của bà sâu xa, nghiêm khắc, âm thầm và rõ ràng không nhiều niềm vui như ngày trước. Anh vội, còn bà thì thong thả, đĩnh đạc.

         –        Có gì không hở mẹ?

         –        Có.

         Bà vẫn không thèm nói ngay. Đó cũng là cung cách giao tiếp của bà. Không bao giờ vội. Bà để cho người được giao tiếp phải chờ đợi, mệt mỏi, thậm chí bẳn cáu. Bà không thèm quan tâm. Cuối cùng bà Thuận lên tiếng.

         –        Mẹ có chuyện với anh thế này. Hạnh phúc là về lâu về dài. Mẹ muốn anh phải giữ gìn, đừng có dốc, đừng có cố quá. Các cụ đã dạy đa dâm thì bại thận! Con phải coi chừng! Yêu ai cũng vậy, phải có liều, có độ. Phải biết chăm đến mình. Có còn cái thân mình thì mới còn sự sống, còn vui còn buồn, còn mẹ còn con. Mẹ khuyên con chỉ một lần thôi đấy. Quá đi là không có được.

         –        Vâng ạ.

         Tuấn trở vào buồng. Bà Thuận nhìn theo, ánh mắt long lanh là lạ. Một lát sau, bà tắt đèn đi nằm. Nhưng bà đâu có chợp mắt được. Hình như bà bắt đầu mất thằng Tuấn. Bà đã chuyền nó qua tay con Loan. Đứa con gái hoàn hảo bà đã tìm kiếm, lựa chọn, ngắm nghía và xem xét kỹ như ông nông dân tính toán trước khi mua một con giống. Vậy mà chính nó lại gây nên sự mất mát này. Bất chợt, như có những ngọn gió lộng réo xiết trong lòng bà đến buốt nhói. Đi đâu về là nó nhào xuống làng Đông. Bà không còn được vuốt má, vuốt đầu con. Và thằng Tuấn cũng không có bụng dạ nào nhổ tóc sâu cho mẹ. Nó cũng không còn thì giờ để nói chuyện hoặc nhìn thẳng vào mắt mẹ âu yếm, tươi cười lấy một lần. Bà Thuận càng nghĩ càng ngấm ngầm bực bội. Lại còn con bé kia nữa. Nó lễ phép với mình, nó vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện rồi vội vã cuốn xéo đi với nhau.

         Vẫn không ngủ được. Trái lại, hai mắt của bà mở trừng trừng. Nó cứ sáng dần lên, rồi từ từ cháy đỏ như hai ngọn đèn quá điện. Màn đêm huyền diệu, bí ẩn, hấp dẫn, đồng nghĩa với sự sinh sôi và tang tóc, êm dịu và ma quái. Trong cái mịt mùng tứ bề ấy hai mắt bà Thuận cháy rực lên. Nội lực nào khiến mắt bà sáng hết cỡ. Chợt bức tường chắn căn buồng đôi vợ chồng trẻ trở nên mỏng tang như được thưng bằng vải mỏng. Bà Thuận nhìn thấy tất cả, rõ mồn một. Những hình ảnh đang diễn ra trong cửa buồng kia hiện lên không thiếu một cử chỉ, động tác. Chúng xoắn lây nhau, chúng vật lộn, cấu xé. Những âm thanh không kém phần kích động. Tiếng vật mình, tiếng hổn hển. Tiếng quậy chân thình thịch. Tiếng thở khác thường. Bà Thuận thấy rõ thằng Tuấn (da thịt của bà, hòn máu của bà, hình ảnh còn lại của ông Lý) đang phớt bà đi. Nó đâu có thèm lưu ý đến sự chỉ bảo của mẹ. Láo thật. Hết lần này đến lần khác, thằng bé đang dốc kiệt sức mình cho con bé. Sự tham lam của con Loan không thể chấp nhận được. Không những thế, nó còn dang vòng tay chờ đón, nồng nhiệt. Bà Thuận thấy rõ như vậy. Ôi cái lỗ thủng không đáy ấy sẽ giết chết con trai bà mất.

         Hết đêm bà Thuận không nhắm mắt, và hết đêm, đôi trai gái đắm say trong những cuộc lăn lộn như vậy. Sáng ra, dường như cả ba người đều kiệt sức. Tuấn và Loan vui vẻ, nhưng xơ xác sau đêm tân hôn. Thân thể họ vơi đi đến một nửa. Loan vốn thanh mảnh nhưng béo ngầm như vậy, mà đi đứng trở nên nhẹ bẫng, hẫng hụt. Tốc độ hao hụt của Tuấn rõ rệt hơn. vẫncao lớn, khôi ngô nhưng sự nây nẩy của bắp thịt cứ biến dần đi. Bà Thuận sút hơn tất cả. Béo đẫy như vậy nhưng bà bây giờ nằm xẹp trên giường như một con bé. Một con bé về kích thước, nhưng lại có mái tóc điểm bạc, nét mặt nhăn nheo. Bà nằm lỳ không dậy. Do mệt một phần, nhưng do ý bà muốn một phần. Để xem chúng nó có nhìn đến bà không. Để xem thằng Tuấn có tíu tít như trước nữa không. Phép thử này sẽ giúp bà đánh giá rõ sự thật. Rồi thằng Tuấn có đến thật. Cả con Loan. Sờ trán xuýt xoa an ủi sáo rỗng. Tếch một cái, chúng đã vào buồng hoặc xuống bếp, quấn lấy nhau, vồ vập, cấu véo. Và chỉ cần bước qua cánh cửa kia, chúng đã tụt quần áo, lõa lồ bên nhau, hú hý, thỏa thuê. Mặc cho bà ngóng trông vô vọng, mòn mỏi xơ xác. Mặc cho cái thân cái kiếp bà một thời bú mớm nâng niu chồng nó yếu ốm, tan rữa trong cảnh cô đơn. Quân mất dạy. Chợt bà lại nghe những tiếng động khả nghi. Và bà thấy thằng Tuấn trong cảnh cố gắng đến tuyệt vọng vắt kiệt sức mình cho conbé đang chờ đón.

         Đêm nào cũng vậy. Cả ba người đều thức chong chong. BàThuận càng trở nên gầy nhỏ, khẳng khiu. Tỷ lệ nghịch với sự hao hụt ấy, lòng đố kỵ của bà mẹ cứ tăng dần lên. Đôi mắt của bà đêm đêm vẫn cháy đỏ một cách ma quái. Và lạ thay nước da trắng nõn của bà, một tháng đã trở nên đen đủi, dễ sợ. Điều này hẳn các nhà y học sẽ hết sức kinh ngạc. Datrắng, liên quan đến bí mật các ẩn số về gien di truyền. Vậy mà sự bùng nổ tâm lý đã tác động mạnh đến cấu trúc vĩ mô trong các tế bào. Nó phủ định cái cũ, tạo nên cái mới. Việc bà Thuận trở nên gầy guộc, đen đủi là có thật. Càng về sau này, đôi mắt bà càng trở nên ma quái. Nó không còn khả năng bộc lộ sự vui tươi, thiện ý.

         Đã đến tận cùng giới hạn của sức chịu đựng. Một hôm bàThuận gọi phắt thằng Tuấn ra. Không dạy không bảo gì hết. Bà cấm! Tuấn im lặng không nói gì. Thâm tâm anh không đồng ý với mẹ. Bà gọi Loan tới. Con bé nen nét sợ hãi. Bàmắng té tát. Láo. Mày đừng có mà giết thằng Tuấn. Không nghe, bà tống ra khỏi nhà. Loan khóc như mưa. Nhưng tạnh nước mắt, trong lòng con bé chợt nổi chông gai chĩa về phíabà mẹ. Một thế trận đã bày để chuẩn bị nghênh chiến. Tuấn là con bà, nhưng anh ấy là chồng tôi. Chả ai dễ gì lùi bước.Rồi bất chấp, chúng lại yêu nhau như điên như dại. Dường như trong thái độ của Loan có cái gì đó giống như sự thách thức. Cô công khai thúc đẩy tình yêu. Trước mắt bà Thuận, cô ép mình vào anh, nhặt sợi tóc rơi trên trán. Con người thù địch có sẵn trong mỗi nàng dâu ở Loan bắt đầu hiện diện. Nó đang chờ đợi và sẵn sàng đối mặt với bà Thuận. Hơn thế, cô còn có ý quyết đánh bại người mẹ trong cuộc giành giật sởhữu này.

         Đêm đêm, các cuộc lõa lồ, cô chẳng cần giữ gìn ý tứ gì nữa, cô còn để mặc cho âm thanh phát ra một cách tự do. Tận cùng sự chịu đựng, bà Thuận đập mạnh xuống giường.

         –        Thằng Tuấn, mày ra đây.

         –        Anh không phải đi đâu hết.

         –        Có ra không?

         –        Không!

         Sầm. Cánh cửa buồng bật gẫy tung. Tuấn luống cuống quỳ xuống chân mẹ. Loan đứng dậy trong tư thế hoàn toàntrần truồng. Cô kiêu hãnh, ngang nhiên bước xuống từng bước bên Tuấn. Cô ôm lấy vai anh giục đứng dậy. Cô còn có ý xác định sở hữu một cách côngkhai, nguy hiểm. Ung dung, tự tại nhưng lòng cô đang có những sụt lở, tổn thất ghê gớm. Sau cái vẻ thật tự nhiên đàng hoàng kia là một thái độ cứng rắn quyết liệt, sẵn sàng giằng xé và chấp nhận cả cái chết.

         –        Cút! Đồ đĩ – Bà Thuận nghiên răng thét lên – Mày giết con tao. Mày hãm hại đời nó.

         Loan càng dịu dàng vuốt ve Tuấn. Chồng cô khóc rưng rức. “Mẹ ơi! Con lạy mẹ”. “Cút ngay!”. Soạt. Bà Thuận rút con dao. Cuộc đấu đã lên đến tột đỉnh.

         Muôn đời như vậy. Mẹ chồng nàng dâu, cuộc đùa dai của tạo hoá, cuộc đấu vĩ đại. Lúc vờ vịt, giả dối, lúc bùng nổ như bom, như đạn bắn. Cuộc giành giật ấy muôn năm không có thắng và không có bại. May thay, hoá ra Tuấn lại tỉnh táo hơn cả. Anh cướp tay Loan kéo chạy. Dùng dằng, Loan muôn chết ngay tại cửa buồng của vợ chồng mình. Nhưng Tuấn khoẻ hơn đã kéo cô ào ra giữa đồng. Thiên nhiên mát mẻ, rộng lượng, thiện ý, cưu mang họ.

         Hôm sau và hôm sau nữa, Tuấn về để điều đình với mẹ. Nghe lời chồng, Loan đồng ý chấp nhận về xin lỗi bà Thuận. Nhưng không xong. Niềm tự ái của bà Thuận vẫn đang ở vị trí tột đỉnh. Hoặc mình Tuấn về, hoặc xéo cả.

         Khôn ngoan, Tuấn kéo cả Loan về sụp lạy dưới chân bà. Không nhúc nhích. Ý muốn của bà mẹ rắn lại như đá. Hàng xóm cũng mặc. Ông nào, bà nào cũng chỉ như nước đổ lá khoai. Mẹ Tuấn vẫn ngồi im phăng phắc. Mắt bà như nhìn vào chỗ không người. Bà không thèm biết tới sự có mặt của Loan. Bà có một điều kiện và chỉ cần nói một lần: hoặc Tuấn về, hoặc xéo tất cả.

         Tuấn cảm giác rõ sự hết lời của mình. Giói hạn cuối cùng mềm yếu và dễ dãi. Anh không thể chặt ba xác Loan ra được. Anh bỗng thấy lạnh run người. Anh im lặng đứng dậy, nước mắt cũng thôi chảy. Vừa đi ra ngõ, anh vừa thấy loáng thoáng ý nghĩ. Thôi mẹ muốn thế nào cũng được. Anh sẽ ra đi vậy. Để cho các người ở lại giành giật, cắn xé lẫn nhau. Một khi đến yêu mà vẫn không biết yêu thì tồn tại sao nổi. Chính lúc đó, trong anh diễn ra cuộc biến đổi dữ dội. Anh cảm thấy cô đơn lạnh vắng, như đang lững thững bước trên miền đất nào đó rất xa lạ. Ở đó cái gì cũng chập chờn, mênh mông, nhấp nhô như gờ như đống. Chân trời xa lúc ấy có màu hoàng hôn. Cái gì anh cũng hư hưthực thực, xa vời. Loan gọi, nhưng anh không tỉnh, vẫncâm lặng, ngơ ngác. Giữa đêm, anh tỉnh dậy và đi đâu mất tăm.

         Hôm đó, tôi có việc leo lên hòn núi Để cao ngất. Từ trên cao, tôi chợt thấy nhà cửa, đất đai, và cả con người mới nhỏ bé làm sao. Giống như những con kiến. Họ đi lại, vui chơi, cày ruộng cấy lúa, yêu nhau rồi ghét bỏ nhau. Ấn tượng đó bây giờ tôi vẫn không quên.

NHỮNG NGƯỜI MẸ

         Trận đánh ấy thật không đáng kể!

        Hiệp dẫn đại đội mình vượt sông Bùng nhận vũ khí, đạn dược mới được ngoài chuyển vào. Các anh bất ngờ gặp địch. Không phải giẫm vào lối bọn phục kích. Chúng có khoảng một đại đội và cũng đang đi đến một địa điểm nào đó. Tên lính đi đầu vừa ló mặt ra mảng rừng trống, chợt thấy ta, nó kêu lên một tiếng rồi cứ thế bỏ chạy, lao vào cả thằng đi sau. Khẩu tiểu liên trong tay nó được cầm với tư thế nào thì cứ thế nhả đạn. Cả đám lính đang đi, ào ào bỏ chạy. Một lúc sau đó mới có nhiều tiếng súng bắn ra từ sâu trong rừng. Hiệp cho bộ đội nhanh chóng chiếm lĩnh địa hình. Ta vừa đánh, vừa bám sát cánh rừng bên kia mảng trống. Bọn địch, không dám đối đầu với ta ở một nơi không có sự yểm trợ của công sự vững chắc và hỏa lực mạnh. Chúng vừa chống trả vừa rút nhanh. Hiệp bị thương. Anh bị thương rất nặng. Có ai ngờ anh lại bị thương vào giây phút ấy. Lạ thay, có những trận chiến đấu thật ác liệt, ở giữa vòng bom rơi đạn lạc, không mảy may một vụn thép nhỏ bay vào người anh, sự toàn vẹn đến ngạc nhiên ấy lại càng làm cho người ta thấy không thể tin được người đại đội trưởng dũng cảm và từng trải như Hiệp lại ngã xuống trong một trận đọ sức quá nhỏ so với cuộc đời anh, một trận đánh chớp nhoáng và không đáng kể! Các chiến sĩ băng vết thương cho Hiệp rồi khiêng anh về Trạm 5. Từ lúc bị thương, cho đến lúc khiêng đến nơi cấp cứu, Hiệp không nói một lời nào. Bác sĩ vừa tiêm thuốc trợ lực để chuẩn bị xử lý vết thương, Hiệp bắt đầu ngất đi; kể từ giây phút đó cho đến ba bốn ngày sau, anh liên tục ở trong trạng thái mê man. Nếu có tỉnh chăng nữa, cũng là lúc anh nằm yên lặng, thở đều và chìm trong giấc ngủ. Các bác sĩ chỉ nhìn nhau. Vết thương của anh đã quá khả năng cứu chữa của y khoa. Người ta đã giành cho Hiệp một sự đối xử đặc biệt. Có những thứ thuốc vừa quý, vừa hiếm vẫn để dành bấy lâu nay, họ mang ra. Trạm đã không tiếc một thứ gì, cũng như không bỏ qua một phương pháp cứu chữa nào nhằm làm cho Hiệp sống được. Nhưng anh, cứ như con thuyền mỗi lúc một xa bờ, không theo ý chủ nữa. Càng những ngày sau, Hiệp càng nằm mê mệt. Anh nằm trên giường, có lúc thở rất mạnh. Người anh trông nhỏ hẳn đi. Có lẽ do kiệt sức vì mất máu. Hiệp trông có vẻ trắng ra và trẻ như một cậu bé mười sáu tuổi, nom yếu đến mức mới nhìn không thể nhận ra anh ngay được.

         Nhưng vào ngày thứ bảy, rất sớm, đồng chí bác sĩ trực đến thay ca, đẩy khẽ cửa bước vào, anh đã thấy Hiệp tỉnh dậy, hai mắt mở to và sáng nhìn thẳng lên mái nhà. Bác sĩ vừa sợ, vừa mừng. Anh bước đến gần giường của Hiệp. Đôi mắt của người thương binh vẫn không hề lay động. Cái nhìn thẳng của anh vừa mệt mỏi vừa im lặng đến nghiêm trang. Nó như cái bóng điện vẫn tối om, bỗng dưng hôm nay nó bừng sáng. Hiệp nằm như thế hồi lâu mới khẽ cựa mình. Anh đã hoàn toàn tỉnh táo. Câu đầu tiên sau một tuần lễ im lặng, đau đớn, anh nói:

         –        Có ai trong đoàn mười nằm đây không?

         –        Có.

         Bác sĩ vừa gật đầu, vừa đáp. Tiếng Hiệp thoảng ra như một hơi thở nhẹ.

         –        Cho tôi gặp.

         Bác sĩ bèn cho gọi tôi đến. Tôi bước vào căn phòng ấy rất khẽ và ngồi xuống giường. Hiệp quay lại, thấy tôi anh rất mừng. Nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt, toàn thân Hiệp chuyển động, đầu ngóc lên như muốn ngồi dậy theo thói quen khi người ta tiếp khách. Bác sĩ kêu lên, chạy tới khẽ đỡ anh nằm xuống. Hiệp nhăn mặt hỏi tôi:

         –        Anh ở D mấy?

         –        Tôi ở Cba, D sáu.

         –        Tên là gì nhỉ?

         –        Dũng.

         –        Dũng Tông phải không?

         Tôi gật đầu xác nhận, ở đơn vị mọi người gọi tôi là Dũng Tông. Từ lâu tôi vẫn có thói quen thay tiếng đánh hay chiến đấu bằng tiếng Tông cho nó một trận. Dũng Tông là biệt hiệu của tôi có từ ngày tôi về trung đoàn này. Tuy cùng là một sáp cán bộ đại đội của trung đoàn, nhưng do diện hoạt động rất rộng lại phân tán nên chúng tôi chỉ biết tiếng nhau chứ chưa hề gặp nhau bao giờ. Lúc đó, Hiệp đã nhận ra tôi, rất mừng rỡ anh quờ tay nắm lấy tay tôi. Chính lúc anh cười, tôi lại thấy vương ra từ khóe mắt hai giọt nước. Tôi cũng hơi run lên. Tôi cảm thấy đó là giây phút vui sướng của Hiệp, bởi ngay sau đó mặt anh chợt nghiêm lại, trông thật lạnh lẽo, thật xa xôi. Anh nói nhỏ:

         –        Dũng ạ, có lẽ mình sẽ không còn sống được bao lâu nữa. Tôi muốn nhờ anh một việc, anh có giúp được không?

         Tôi hứa với Hiệp sẽ đi cùng trời cuối đất để làm trọn công việc mà anh nhờ tôi. Nụ cười lại lóe lên trên môi Hiệp.

         –        Vất vả thì không vất vả lắm đâu. Nhưng anh hãy hứa với tôi là anh giúp nhé.

         –        Đúng thế.

         –        Nhưng chuyện này, anh không được nói cho ai biết nữa. Nếu thêm một người nữa biết câu chuyện này của tôi thì tôi chẳng cần nhờ anh giúp làm gì.

         Khi nói câu này, Hiệp gần như gắt lên với tôi. Tôi biết trong con người anh đang chứa chất một điều gì bực bội. Anh nằm im để nghỉ một lát rồi lại nói tiếp với tôi, vẫn cái giọng hơi có vẻ khó chịu ấy.

         Ở hậu cứ, dưới đáy ba lô của tôi có một cái hộp sắt tôi buộc rất kỹ. Trong cái hộp đó, tôi có đựng một số giấy tờ, tôi nhờ anh trở về mở ra và đốt đi cho.

         Tôi linh cảm thấy một cơn đau đớn đang dội lên trong người Hiệp. Sau câu nói, mặt anh chợt tái ngắt. Anh quay mặt vào phía trong, và trên vầng trán lấm chấm những giọt mồ hôi rất nhỏ. Có lẽ Hiệp nằm im để nghỉ. Anh nằm bất động, tấm chăn bộ đội vẫn choàng trên người. Tôi đoán anh đang có chuyện gì đó vừa quan trọng, vừa nặng nề. Hay là một chuyện gì xảy ra ở đơn vị? Hay là một chuyện gì đó ỏ gia đình? Tôi không đoán biết được.

         Ở trung đoàn, chúng tôi cũng mới được nghe tên nhau qua những mẩu chuyện về một đại đội trưởng, một tiểu đoàn trưởng chung chung thế thôi. Thường đó là tốt thêm, hoặc bôi xấu một con người nào đó mà ở đâu chẳng có: Khi anh vào viện, tôi có đến thăm vài lần, từ lúc anh còn chưa được tỉnh. Bởi vì thế, có chuyện gì xảy ra trong cuộc đời Hiệp, tôi làm sao biết được? Nhưng chắc chắn đây là chuyện riêng vừa quan trọng, lại vừa buồn.

         Một lúc rất lâu, Hiệp mới quay mặt ra. Lúc này, mắt anh sáng hơn. Con người anh như vừa phải bơi qua một mặt hồ sóng to, gió dữ và đã lên tới bờ. Cái nhìn của anh mất hẳn vẻ khó chịu. Toàn gương mặt của anh mát mẻ hơn, thanh thản hơn. Anh mỉm cười dễ dãi đôi chút.

         –        Anh hứa với tôi giữ kín chuyện này chứ?

         –        Vâng. Tôi xin hứa như vậy.

         Một lần nữa, tôi lại thấy Hiệp vật đầu vào phía trong. Mãi sau này tôi mới hiểu được giây phút sóng gió cuối cùng ấy của Hiệp. Anh đã kể toàn bộ sự việc xảy ra ở nhà cho tôi nghe. Làm việc đó là anh cởi bỏ những vướng mắc cuối cùng trong lòng mình trước lúc đi xa.

         Hiệp kể rằng vợ anh, cô Ngoan nhân viên của một phòng tài chính huyện, anh cưới cô trong dịp từ trường đại học Bách khoa về quê đi phép để chuẩn bị nhập ngũ. Đám cưới của Hiệp hoàn toàn trong tư thế bắt buộc. Mẹ Hiệp đã gần sáu mươi tuổi. Bà có hai người con trai. Nhưng anh của Hiệp, một kỹ sư của khu gang thép Thái Nguyên, vừa có vợ, sinh được thằng con trai thì anh bỏ mình trong một trận ném bom của Mỹ. Trong lần đi phép ấy, nếu Hiệp không tổ chức đám cưới, thì mẹ Hiệp ở nhà một mình, anh không đành lòng. Sau hơn một tuần suy nghĩ. Hiệp quyết định nhận lời bàn bạc của gia đình.

         Tuy là một cuộc hôn nhân tự giác, nhưng cũng là sự bắt buộc của tình thế. Sau đó một ngày, Hiệp xuống lại cơ quan tài chính huyện để gặp Ngoan. Người con gái ấy trước đây đã từng gây cho Hiệp nhiều thiện cảm. Cô có nước da rất trắng và đặc biệt nhiệt tình với bạn bè. Hai người đã từng thân nhau và có thể nói tình yêu đã bắt đầu chớm nở. Bỗng nhiên trong một cuộc tiếp xúc nào đó, Hiệp không thể nhớ một cách cụ thể, Hiệp lại có cảm giác Ngoan là cô gái tốt bụng thật, nhưng lại có vẻ không được kín đáo lắm. Anh còn thấy Ngoan hay cười to và nói to. Những ý nghĩ ấy tuy rất nhỏ nhưng cứ len lỏi phá phách dần dần tình cảm mới bắt đầu bén ở cả hai người. Mỗi ngày Hiệp một xa lánh Ngoan, cho đến ngày vào trường đại học mọi sự vương vấn về Ngoan coi như mất hết. Mấy năm sau đó, anh cũng đôi lần nhớ đến Ngoan, nhưng là nỗi nhớ thông thường về hàng trăm ngàn khuôn mặt bạn bè trong quá khứ.

         Buổi tiếp xúc đầu tiên với Ngoan, Hiệp vẫn thấy cô ta không có gì thay đổi. Nhận xét ấy đã gieo vào lòng Hiệp một nỗi buồn mơ hồ, phảng phất. Nhưng sau ngày cưới nhau, tất cả những ý nghĩ đó bỗng tan biến. Hình như đã là vợ chồng tình cảm của Hiệp bỗng có nhiều thay đổi. Anh thương vợ hơn. Anh không còn có nhiều suy xét, ác ý đối với cô. Anh làm đỡ nhiều việc nặng cho vợ. Tình cảm vợ chồng vừa mới bén lên, là lúc Hiệp phải chia tay Ngoan trở lại trường đại học để nhập ngũ.

         Hiệp tự nghĩ, mình lấy vợ là đúng. Nếu không may anh có đi xa lâu ngày, ở nhà sẽ có người vào ra sớm tối giúp đỡ mẹ già. Một ấn tượng Hiệp không thể nào quên được từ ngày có Ngoan, mẹ Hiệp như trẻ ra. Quả thật, bà hay nói hay cười hơn trước. Những hôm nghỉ ở nhà thời tiết bình thường, con dâu ra đồng, bà còn vác cuốc đi theo. Hai mẹ con sống với nhau vui vẻ như hai người bạn.

         Hiệp cưới vợ đầu năm thì gần cuối năm có con. Một buổi chiều đang luyện tập ở một đơn vị đóng quân tại ngoại thành Hà Nội, Hiệp nhận được lá điện của người nhà, báo tin Ngoan sinh con gái. Có thể nói chưa bao giờ Hiệp lại vui như vậy. Anh phấp phỏng cầm lá điện lên báo cáo thủ trưởng cho anh về ba ngày. Dọc đường về nhà, anh mường tượng Ngoan sẽ hân hoan đón anh như thế nào! Rồi những giây phút đầu tiên đứng bên đứa bé mới ra đời!

         Hơn một ngày tàu xe Hiệp đã về đến nhà. Mẹ anh vui như một người còn trẻ chạy ra tận ngõ đón con. Ngoan vẫn cặm cụi trong nhà với cháu bé vừa mới ra đời. Có tiếng nó khóc o… e trong buồng kín. Để cho thật bình tĩnh, Hiệp mới mở cửa bước vào. Đầu tiên, anh nhìn thấy đôi mắt sáng long lanh của Ngoan. Dường như khi thành một bà mẹ, cô không còn bồng bột như ngày chưa có gì. Hiệp cúi xuống giường, anh không ngờ những đứa trẻ mới sinh lại xấu như vậy. Đó là lần đầu, anh được nhìn những cháu bé vừa nở ra từ bụng mẹ. Cái con người bé bỏng được đặt trong miếng chăn hoa cựa quậy, tung tẩy chăn. Nó khóc như một chiếc ra-đi-ô hỏng kêu ọ ẹ. Và nếu anh không dọn nhà, dọn giường, dọn phòng, anh sẽ không biết được điều đó. Đã có lúc anh từng nghĩ: Giá như mình không biết có hay hơn không? Nhưng dù sao thì miếng giấy nhỏ bằng cái nhãn vở ấy cũng đã bay từ trên đỉnh màn xuống đất, cho anh biết một sự thật. Cháu bé không phải là con của anh. Trong tấm giấy ấy viết dòng chữ vắn tắt: Ngoan, anh gởi cho con năm trăm đồng! Anh cố gắng xem lại cho thật chính xác. Dòng chữ ấy vẫn thông báo cho anh biết cái tin đột ngột.

         Thế là hết! Anh như cưỡi cỗ xe phóng hết tốc lực đến một địa điểm nào đó, đến nơi, hóa ra không có cái anh định tìm. Nhưng cũng lạ thay, anh không hờn giận, ghen tuông, căm ghét. Anh chỉ thấy mình đã nhầm còn Ngoan, như suốt một năm qua, cô đến ở nhờ trong nhà anh để sinh đứa con của riêng cô. Thế là hết. Lòng Hiệp tan hết mọi cảm xúc, khiến anh dửng dưng, không có một biểu lộ nào khác. Với linh cảm nhạy bén của một người phụ nữ, từ bên ngoài bước vào, thấy Hiệp đang quét dọn nhà cửa ầm ầm, bỗng dưng ngồi im và không muốn làm gì cả, Ngoan biết ngay Hiệp đã nhặt được tờ giấy mà chính cô đang tìm cách vứt đi. Mặt cô đỏ rực. Nhưng chỉ một thoáng lại tái ngắt, những giọt nước mắt cứ thế tuôn chảy trên hai gò má. Từ lúc đó, Hiệp không nói với Ngoan một lời nào nữa. Vốn là con người chín chắn, Hiệp lại đạp xe xuống huyện một lần nữa. Anh xin gặp đồng chí trưởng ban tài chính, cơ quan của Ngoan. Anh đặt vài câu hỏi, đồng chí trưởng ban già ấy quả thực không biết. Ông còn khen Ngoan làm việc chăm chỉ, không có một biểu hiện gì của con người xấu. Hiệp hỏi sang người thứ hai trong cơ quan, Đó là một chị phụ nữ ngoài ba mươi tuổi. Chị cho biết, trước đây Ngoan cũng là cô gái yêu nhiều, nhưng từ ngày lấy chồng, cô không chơi với một người con trai nào nữa. Hiệp hỏi đến người thứ ba, một cô gái trạc tuổi Ngoan, vừa đen, lại vừa đanh đá, chưa hỏi cô đã bĩu môi nói với Hiệp: “Ôi chao! Bây giờ anh mới hỏi thì đã muộn!”.

         Hiệp ra đi giữa lúc Ngoan hết sức sợ hãi, chờ đợi mọi hậu quả mà cô phải gánh chịu. Chỉ có mẹ Ngoan vẫn vui như mọi ngày. Có lẽ vì quá vui nên bà chẳng để ý đến những sự rạn nứt trong tình cảm của Ngoan và Hiệp. Anh không nói nặng Ngoan một lời, nhưng khi ra bến xe, anh chỉ ngoái nhìn Ngoan và không nói một tiếng.

         Ra tới đơn vị, Hiệp tiếp tục lao vào tập luyện để chuẩn bị đi chiến đấu. Công việc riêng đầu tiên anh viết hai lá đơn và một thư. Lá đơn xin ly dị, gửi tòa án huyện, lá đơn gửi ủy ban nhân dân huyện và lá thư gửi cho những người chú, người bác. Lẽ ra Hiệp đã gửi những giấy tờ ấy đi rồi, nhưng vì lệnh đi chiến trường sớm hơn dự kiến của đơn vị, Hiệp băn khoăn giữ lại. Anh nghĩ, nếu gửi số giấy tờ này đi, không có mặt anh ở nhà, hậu quả sẽ vô cùng phức tạp. Hơn nữa mẹ anh suốt một đời nuôi anh, anh không muốn bà phải lo toan những gì quá sức chịu đựng. Anh chỉ muốn mẹ mình được sống yên ổn tại quê nhà. Mọi việc, Hiệp muốn nán đợi sau ngày anh ra Bắc sẽ hay.

         Suốt một tiếng đồng hồ, tôi ngồi nghe Hiệp kể lại đầu đuôi câu chuyện. Anh như bầu trời mây đen nặng nề, vần vũ mãi mãi mới mưa xuống được. Và khi mưa xong, bầu trời sạch trong, không gợn một đám mây. Gương mặt Hiệp lúc đó cũng trơ ra như hết mọi trách nhiệm với cuộc đời. Mặt anh thoáng những nét thỏa mãn. Mặc dù lúc ấy, anh cố dặn tôi lần nữa: Đốt những giấy tờ anh để ở hậu cứ và không cho ai biết thêm câu chuyện của anh.

         Hiệp còn cho tôi hay: ba năm anh ở chiến trường. Ngoan vẫn sống bình thường trong nhà anh. Một đứa cháu gái của Hiệp viết thư báo tin: bé Hồng nay đã lớn. Nó rất xinh. Mẹ Hiệp rất quý nó. Hiệp càng tin rằng đầu đuôi câu chuyện của mình vẫn được giữ kín như không có gì xảy ra. Anh chỉ mong có một điều, khi anh mất, mẹ anh cứ tin như vậy. Còn sau đó, Ngoan có thể đi lấy chồng, mang theo cả con gái, hoàn toàn tùy thuộc vào cô. Tôi hiểu khi nhờ tôi đốt những giấy tờ còn ở hậu cứ, Hiệp rất băn khoăn. Tôi nghĩ, có lẽ để anh tự đốt số giấy tờ ấy đi vẫn yên tâm hơn là nhờ vả một người khác. Tôi vội vàng đứng dậy và nói với anh, hãy để cho tôi chạy về hậu cứ mang đồ đạc lên Trạm. Hiệp nghe tôi nói, nhưng chỉ lặng thinh. Đôi mắt của anh vẫn nhìn tôi nhưng anh đã như người không còn ở bên cạnh tôi nữa. Một cơn đau bất ngờ đã kéo Hiệp quay mặt vào trong, ánh mắt anh đã sầm lại. Không cần chờ Hiệp đồng ý, tôi vội vã xin về lại hậu cứ, với hy vọng buổi chiều có thể quay về. Tôi đi rất nhanh, tôi thầm mừng có thể tới Trạm 5 sớm hơn cả tôi dự định. Nhưng không bao giờ tôi có thể kịp được nữa. Tôi vừa đến cửa Trạm đã được tin Hiệp hy sinh. Không phải tôi quên lời Hiệp dặn mà tôi có cảm giác chẳng thiết làm thêm một việc gì sau ngày Hiệp mất. Một tuần sau tôi mới lục ba lô của Hiệp để lấy những giấy tờ kia ra đốt. Đứng như Hiệp đã nói, ở đáy ba lô của anh có một cái hộp sắt nhỏ, hình chữ nhật được buộc chặt. Trong đó có ba lá đơn được gấp trong ba chiếc phong bì đã viết địa chỉ nơi gửi và dán tem. Đầu thư đề ngày cách đó hơn ba năm, nhưng chủ nhân của nó lưỡng lự chưa kịp gửi đi. Tôi bật lửa, những giấy tờ ấy bén cháy, bay lên thành tro bụi.

         Nửa năm sau, tôi mới có dịp về qua nhà Hiệp. Chính tôi về địa phương để làm kế hoạch báo tử cho Hiệp. Tuy anh hy sinh đã một thời gian dài, ở quê, vẫn chưa ai hay biết gì. Chính điều đó bắt buộc chúng tôi phải thận trọng trong kế hoạch làm lễ truy điệu. Phải làm thế nào cho khỏi đột ngột, đừng như gáo nước lạnh giội vào gáy người ta. Khi tiếp xúc với bà mẹ Hiệp, tôi thấy bà thật mẫn cảm. Bà lắng nghe, và nhìn tôi chăm chú, xem xét cung cách tôi nói về Hiệp, chứ bà cũng không hỏi han nhiều như những người mẹ ồn ào khác. Tôi vẫn giữ kín mọi tin tức về Hiệp trước ngày báo tử. Tôi nói dối mẹ là Hiệp vẫn còn đi công tác, trước khi tôi về quê, hai anh em chúng tôi không gặp nhau. Người mẹ lặng im và có phần ngờ vực. Bởi vì bà biết, ở cái làng này, xã này nếu có ai về làm những công việc như tôi tức là con họ không còn nữa. Tôi rất lo lắng, bàn bạc với anh em huyện đội, nên đón cụ về chơi một hai ngày. Chúng tôi đã đưa cụ đi xem phim, xem kịch, xem tuồng. Rồi một hôm chúng tôi mời cụ đi dự một cuộc lễ truy điệu đồng chí chiến sĩ xã dưới. Suốt cuộc lễ, người mẹ lặng lẽ, chăm chú, thỉnh thoảng lại đưa khăn tay lau mũi. Vào lúc tôi đang đứng một mình một chỗ, bà mẹ bèn đi tới. Tôi nhìn và thấy nước mắt bà cứ lặng lẽ chảy. Người mẹ hỏi tôi:

         –        Thôi. Chú cứ nói thật đi. Thằng Hiệp nó chết rồi phải không?

         Tôi nhìn mẹ và lần này tôi không thanh minh với cụ nữa. Tôi cứ tưởng sau đó mẹ sẽ khóc to và nhiều. Nhưng không phải. Từ lúc lên xe ô tô và xe chạy về tận huyện đội, bà cụ không khóc, nhưng cũng không nói gì cả.

         Chúng tôi lập tức tổ chức lễ truy điệu ngay sáng hôm sau cho trung úy Trần Văn Hiệp. Có ngờ đâu trong cuộc lễ, người mẹ lại không khóc to. Tôi chỉ thấy có từng lúc nước mắt bà cụ tuôn chảy, bà đưa khăn lau đi. Người khóc rất to lại là Ngoan. Nhìn thấy Ngoan khóc lồng lộn, tôi vừa thấy ngại ngùng, vừa xấu hổ. Mọi người trong cuộc lễ xúm lại an ủi Ngoan. Sau đó, tôi còn thấy nhiều chị bạn trong cơ quan đến ngủ tối trong nhà với Ngoan.

         Tôi không hiểu nỗi đau đớn của Ngoan thật hay giả: Tôi chỉ tự an ủi mình, cuộc sống nó có thật như thế, hãy đành chấp nhận lấy vậy. Biết đâu Ngoan đã biết tội mình và nỗi đau của cô rất thực thì sao?

         Năm đó là năm 1972.

II

         Chuyện của Hiệp tôi không quên, nhưng đường đất quê anh, tôi không còn nhận ra ngày xưa, chỗ nào là chợ, ngã ba nào rẽ về nhà anh nữa. Mười mấy năm rồi còn gì! Một khoảng thời gian chứa đựng biết bao nhiêu biến cố của sự đời. Sau năm 1972, tôi bị thương rồi ra quân. Không phải đã là bộ đội, ai cũng mất mát hy sinh như nhau. Tôi vẫn có những may mắn bình thường khác. Tôi thi vào đại học Sư phạm Vinh và đỗ ngay. Sau mấy năm học tôi ra trường, dạy học được mấy năm. Vợ tôi, một giáo viên cấp ba, kém hẳn vợ Hiệp đến một thế hệ. Hầu như chiến tranh, trong khái niệm của cô chỉ là những chiếc phản lực bổ nhào và ném bom. Chúng tôi sống như mọi gia đình khác. Tôi lên miền quê của Hiệp đầu hè năm nay với một nhiệm vụ: Tổ chức đợt thi cho học sinh.

         Rời ủy ban huyện, tôi đi tìm nhà Hiệp. Sau mười mấy năm, cảnh và vật thay đổi đã quá nhiều. Hoặc là làng xóm ở đây, tôi không còn nhớ rõ nên ngỡ ngàng như tới một vùng xa lạ. Có chỗ đất ngày trước làm chợ, nay chỉ thấy những dãy nhà tập thể mọc san sát đông đúc và bận rộn. Những đường cây trồng theo quy hoạch mới to cao làm cho hình dạng vùng này trở nên mới mẻ, lạ lẫm. Có những con đường lớn đã được phá đi khiến cánh đồng rộng thêm, mênh mông và bâng khuâng. Giá như không có ngọn tháp nhà thờ, tôi không tìm được con đường nhỏ chạy vào làng.

         Tồi bỗng thấy lo lo. Không biết mẹ Hiệp hôm nay có còn không? Ngoan đã đi lấy chồng chưa, và lấy ai? Nếu bà mẹ còn sống, năm nay bà đã ngoài bảy mươi tuổi. Dọc đường tôi đi, bỗng có một ngọn gió nam thổi nhẹ làm mát mẻ bầu trời tháng tám, đủ lay động những ngọn lúa xanh ngắt. Nỗi băn khoăn cứ xoáy vào lòng tôi: Bà mẹ có còn sống không? Hơn mười mấy năm qua, đất đai sông núi còn thay đổi, huống chi con người.

         Tôi vẫn biết đi đúng vào ngõ nhà mẹ Hiệp. Vào đến nơi, tôi đứng lại và lạnh cả người: Một bà cụ già, mặt gầy, tóc trắng xóa đang ngồi im lặng trên thềm nhà. Cụ ngồi đó như ngồi đã lâu lắm, hàng trăm năm, không nhúc nhích, giống như một pho tượng bà mẹ Việt Nam mà chúng ta đã một lần nhìn thấy ở đâu đó. Người tôi run lên với một tình cảm tôi chưa hề có: Vừa mừng lại vừa sợ. Tôi chào mẹ. Bà cụ quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi, đôi mắt mờ và chậm.

         –        Anh là ai?

         –        Thằng Dũng đây mẹ ạ.

         Bà cụ gật đầu nhận ra. Tôi ngồi xuống cạnh bà cụ. Bà mẹ lại ngồi ở tư thế cũ. Lúc sau bà nhìn tôi hỏi:

         –        Dũng con bố Thạo phải không?

         Bà mẹ không biết tôi là ai. Tôi ngồi sát cụ hơn, và nói to như thói quen nói với những người già tôi vẫn tưởng tai họ không nghe rõ.

         –        Dũng ngày trước đưa mẹ xuống huyện ấy.

         –        À… à…

         Bà cụ lại gật đầu xác nhận. Ngồi bên một bà mẹ, thấy bà không ăn trầu trong miệng, tôi thấy trống trải thế nào đó. Bà cụ lại nhìn tôi hỏi:

         –        Ông Thạo lâu nay có khỏe không?

         Lúc này tôi mới biết bà mẹ vẫn nghĩ tôi là con trai ông Thạo nào đó. Tôi biết bà cụ không còn nhớ tôi nữa. Tôi không nói thêm cho mẹ biết. Tôi nhìn chung quanh nhà, ngoài sân, vườn tược. Chủ nhân ngôi nhà này bây giờ là ai đây? Tôi nghĩ, và thấy những bộ quần áo phụ nữ phơi trên dây.

         Một lát sau, có người đàn bà đi vào. Chị khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, người gầy và nước da xạm đen. Chị khẽ chào tôi rồi đi vào nhà. Tôi hơi nghi hoặc. Lúc quay ra, người phụ nữ ấy đã bỏ nón, tôi mới nhận ra chị không phải là ai xa lạ, chính là Ngoan. Một lần nữa, chị lại nhìn tôi, miệng lúng búng, có phần e thẹn:

         –        Anh có phải…

         –        Vâng chị ạ. Tôi là Dũng đây.

         Gương mặt người đàn bà bỗng rạng sáng. Chị đi lại, và làm tất cả những động tác tiếp khách. Lau bàn, rửa chén, pha nước, với một vẻ nhiệt tình vội vã, bận rộn. Chị nói nhỏ đến mức tôi phải cố gắng mới nghe được. Tôi vẫn bàng hoàng trước những sự thay đổi của chị. Người con gái trắng trẻo và xinh đẹp trước đây là người đàn bà đã sớm có những nét cằn cỗi già nua này ư? Chị như một bà mẹ vậy. Nhìn vẻ mặt chịu đựng của chị, tôi cảm thấy những năm tháng qua chị sống một cuộc đời im lìm, lặng lẽ. Không có lẽ một cô gái sức sống mạnh mẽ như Ngoan lại xua đuổi những cám dỗ của cuộc đời, thắt bụng ở như vậy sao? Chị Ngoan đã ngồi vào bàn rót nưóc mời tôi. Tôi cầm nước lên uống. Tôi muôn nói chuyện thật cởi mở, nhưng lại không thể hé miệng ra được. Rõ ràng có một khó khăn nào đó đã ngăn tôi lại như một đứa học sinh câm lặng trước những thày giáo của mình; Ngoan cũng không nói nhiều. Và khi nói đến Hiệp, nước mắt chị lại chảy long lanh xuống hai gò má dô cao.

         –        Sau ngày nhà em mất, em xin về hẳn nhà làm nông nghiệp anh ạ. Cũng không phải vì bà cụ đâu. Lúc đó em chẳng thiết gì cả, may mà rồi cũng thành quen đi anh ạ.

         Chị Ngoan kể cho tôi nghe công việc đồng áng, hạn hán, giống má. Chỉ khi cháu Hồng về, không khí trang nghiêm và nặng nề mới xua tan đi phần nào. Hồng đi học về. Nó đã cao lớn gần bằng mẹ. Cô bé đói bụng, bước vào nhà, mặt ỉu xìu, chẳng chào hỏi ai cả. Có lẽ nó thừa hưởng nước da trắng của mẹ, cô bé to cao, tất tưởi như cây chuối non mọc giữa những cây chuối đã treo buồng gẫy gập thân gánh nặng. Hồng giống mẹ như một phiên bản.

         –        Cháu học lớp mấy?

         –        Lớp chín ạ.

         –        Chú về công tác tại trường cháu đấy. Cháu có nhìn thấy chú không?

         Trưa hôm đó, tôi ở lại ăn cơm với gia đình. Mặc cho khách, bữa ăn vẫn không mất đi những giây phút lặng im thoáng những cái gì đó rờn rợn. Suốt thời gian ở chơi trong nhà, tôi vẫn không biết thêm chuyện gì trong gia đình. Sau ngày về trên tỉnh, thỉnh thoảng tôi vẫn hỏi thăm nhà chị Ngoan. Người ta không biết, hoặc chú ý gì đến chuyện ấy. Người ta trả lời cũng chỉ có thể nói gia đình ấy vẫn sống bình thường như vậy. Tôi vẫn vướng nhiều thắc mắc. Nhưng những năm gần đây tôi đã tự lý giải cho mình. Ngoan vẫn ở vậy nuôi mẹ. Có thể vì cô không lấy được ai nữa, hoặc cô không thích và cũng có thể, cô sống như thế để đền đáp sự tha thứ của Hiệp? Cuộc đời phong phú và phức tạp như thế này và như thế khác có gì đáng ngạc nhiên? Suy nghĩ vậy, bỗng tôi thấy mình yên tâm hơn về hoàn cảnh gia đình của người đồng đội.

THỜI GIAN NHƯ DÒNG SÔNG

I

         Ai đã học đại học Y khoa, chắc còn nhớ một hoa khôi của trường. Tên cô là Nguyễn Thị Thủy, trước kia, cô lót cho tên mình chữ Kim, chữ Thanh, chữ Thu, cuối cùng, cô chọn cho mình cái tên giản dị hơn cả: Nguyễn Thị Thủy. Cô còn có một cái tài khá đặc sắc: đó là tài chơi cầu lông. Những buổi chiều sau giờ học, Thủy thường chơi cầu lông ngay dưới sân trường. Cô xắn quần lên ngang đầu gối, tay áo cũng xắn tới khuỷu và cô bất chấp mọi đối thủ. Mắt Thủy rất đen và sắc. Có lẽ vì nhanh mắt, nhanh tay, Thủy đã từng cho nhiều đối thủ, kể cả con trai đo ván.

         Những ai đã biết, tin rằng sẽ không thể quên được hình ảnh ấy của Thủy mặc dù cái tài của trò chơi cầu lông chẳng đáng để người ta ghi nhớ. Những người đã từng thấy Thủy trong tư thế nhảy nhót, mặt mũi đỏ ửng lên, chân và tay trắng trẻo, đôi mắt sáng ngời ấy, ai cũng thèm khát cho chính mình cái vẻ đẹp hiếm có ấy.

         Nhưng tính Thủy hơi khó gần. Mặc cho sự kiêu hãnh trong cô khá kín đáo, nhưng sống với nhau lâu ngày, trước sau mọi người cũng biết. Tuy thế, cũng có nhiều lúc cô chan hòa trong bè bạn. Khi mọi người đã biết tính cô, người ta chấp nhận tất cả. Không ai tò mò, phán xét, hoặc tỏ ra khó chịu như những ngày mới ở với nhau.

         Vào những ngày cuối cùng của khóa học ấy, ai cũng sống điêu đứng trong trạng thái tâm hồn xáo động. Kẻ đi người ở. Đứa ra đi nhận công tác, đứa phải chờ đợi. Ăn và ngủ cũng thất thường. Có đêm đã thật khuya trong các dãy phòng ký túc xá, vẫn vọng ra tiếng rì rầm to nhỏ. Từ một góc nào đó lại là tiếng cười thật to. Các phòng ở, nhiều khi bạn bè đổ ập đến, đông chật nhà. Nói chuyện, cười đùa một lúc, họ lại đột ngột kéo nhau đi như dòng nước lũ dốc hết khỏi lòng khe, để lại trơ trơ những hòn đá cũ.

         Họ sắp ra đi tất cả. Không khí chợ chiều, rã đám có thể nhìn thấy rõ. Ai cũng sống tạm bợ, không có kỷ luật phép tắc gì cả. Không cô nào quét nhà, nhà bẩn. Cái bì thơ bay ở hàng hiên, mấy ngày không ai chú ý nhặt bỏ vào thùng rác. Gió quét tấm phong bì bay ràn rạt từ đầu phòng này sang đầu phòng khác. Mấy ngày sau vẫn thế. Nhà ở tập thể của sinh viên có lúc hoang vắng như nhà không có người ở.

         Có thể nói đó là những ngày náo động trong cuộc đời Thủy. Mỗi một ngày bạn bè lại đem về nhiều tin tức đột ngột, làm vỡ tung nhiều chuyện. Thủy vẫn đinh ninh một ý nghĩ lâu nay: Bọn nữ sinh lớp Thủy, đứa nào cũng hiền lành, chăm chỉ học tập. Nhưng Thủy đã nhầm to. Tám giờ sáng, cái Thu trắng dẫn về phòng một anh bộ đội. Vừa ló mặt vào cửa sổ nó đã toe toét cười. Cái cười không chống chế nổi sự vui sướng và ngượng ngập. Anh chàng nó dẫn về trình diện bạn bè là chiến sĩ lái máy bay chiến đấu. Rất đông người kéo đến phòng Thu. Đang vui vẻ trò chuyện thì Thu báo tin: Ngày mai, nó và anh bộ đội sẽ bay vào Thành phố Hồ Chí Minh. Mới nói đến đó, mặt cô gái đã tái nhợt vì xúc động. Nó lặng ngắt, lấy cái túi xách từ tay anh bộ đội vẫn ngồi im một chỗ, bày mấy gói kẹo, thuốc lá và chè. Sau đó, nó mới ngập ngừng nói tiếp. Tiếng nó nhỏ hẳn, rụt rè và cảm động. Thu nói về ai có điều kiện, ngày mồng mười này vào dự lễ thành hôn của hai người tổ chức trong sân bay Tân Sơn Nhất. Bạn bè của Thủy, ai cũng giật mình sửng sốt. Họ ngẩn ngơ sau những tin tức Thu nói.

         Thế là phòng 5 lại mất đi một người bạn tốt bụng và vui tính. Ừ! Rồi nó sẽ chẳng bao giờ về trường này làm gì nữa. Rồi nó sẽ quên tất cả bạn bè để sống với cái thế giới riêng biệt của nó! Trong lòng mỗi người chợt như lỗ thủng để gió lạnh ùa vào. Vết thương như một sự mất mát chưa lành thì nhiều cô khác lại đem bạn đời của mình về. Lại tiễn bạn, lại những cuộc ra đi đầy xao xuyến. Có đứa đi đồng bằng sông Cửu Long. Có đứa lên Đà Lạt. Có đứa vào Nha Trang. Mỗi người đang đi về cái ngõ đời riêng của mình. Thủy rất sốt ruột. Cô cảm thấy cô đơn như một chuyến đò, người ta đã qua sông tất cả, chỉ một mình cô ở lại bên bờ này.

II

         Thủy ở lại với lý do riêng. Cô đang chờ một quyết định của chính bản thân mình. Cô có hai khả năng, hoặc nhận công tác ở Nha Trang, hoặc ở Hà Nội. Quyết định này của Thủy dính dáng đến một công việc hệ trọng trong cuộc đời Thủy. Đó là cô chấp nhận Khánh, hay tiếp tục theo đuổi Cương. Phải chờ đợi! Thật kỳ lạ. Giữa lúc tốc độ cuộc sống mạnh như dòng nước chảy xiết, lại có một người chờ xem tình cảm của mình nghiêng về ai. Biết làm sao được! Thủy tự nghĩ và thở dài.

         Trong hai người con trai được Thủy coi là đối tượng để lựa chọn, mỗi người một vẻ. Khánh đến với cô, như cơn gió mạnh xô vào cánh buồm. Còn ngược lại, Cương lại đến một cách lặng lẽ, kín đáo và bí hiểm như một vì sao xa vời.

         Chính Thủy cũng ngạc nhiên với chính bản thân mình. Rất nhiều cô gái Thủy biết họ đều xinh đẹp theo đuổi Khánh, thì Khánh lại lao vào tìm hiểu cô. Còn cô lại có phần dửng dưng trước Khánh nhưng lại theo đuổi một con người khác. Người đó là anh Cương. Khánh vừa tốt nghiệp xong ở trường Đại học Bách khoa. Anh kỹ sư trẻ này là một chàng trai đã từng được mọi người truyền tụng là một mô hình hiện đại. Hầu như ở Bách khoa, ai cũng biết con người chơi trội này. Khánh thường đi xe máy, mặc quần bò, đeo một cái túi đỏ chót. Thoạt trông anh cũng có vẻ khác thường một chút. Nếu chỉ chọn một người đẹp trai không thôi, Khánh hoàn toàn đủ tiêu chuẩn để Thủy chấp nhận. Anh đi đến đâu, thường kéo theo sự ồn ào đến đó. Nhìn chung, anh có tất cả những điều kiện cho một bài toán hạnh phúc giải tốt. Bố anh một giám đốc công ty cầu. Hôm Thủy đến nhà, cô hoàn toàn không ngờ ông lại trẻ và bà lại già như hai chị em vậy. Ngoài năm mươi, nhưng bố Khánh da đỏ, thấp và béo tốt như chỉ bốn mươi tuổi. Còn mẹ Khánh mặt không già lắm, nhưng tóc lại trắng xóa. Bố Khánh rất cởi mở với bạn bè các con. Chỉ qua vài câu chuyện và những cái nhìn, Thủy còn nghĩ, Khánh có được một người bố sắc sảo.

         Khánh hoàn toàn không phải là người con trai chơi bời và ngang tàn như người ta nhìn bề ngoài. Hoàn toàn nhầm lẫn, nếu chỉ dừng lại theo cảm tính nhận xét về anh. Bên trong chàng trai này chứa đựng một phẩm chất, một bản lĩnh rất quý của một người đàn ông. Anh ta đã muốn cái gì, anh sẽ lấy cho bằng được cái đó.

         Thủy không thể quên được dịp đi phép về quê ngoại thị xã Phan Thiết, cô đã quên đem ra một thứ mà cô rất thích, đó là cát đỏ của biển mũi Né. Như đối với mọi người và rất vô tình, Thủy kể chuyến đi hơn một tháng rất thú vị của mình tại quê ngoại cho Khánh nghe. Tưởng chừng câu chuyện ấy qua đi, ai ngờ một tháng sau, trong dịp đến chơi, Khánh đưa cho Thủy một bọc ni lông, đựng những thứ mà cô tiếc rẻ đã bỏ quên ấy. Thủy lùi lại kinh sợ:

         – Cái gì thế này?

         – Cát đỏ.

         – Anh lấy ở đâu?

         – Thì cứ có cát đỏ ở mũi Né là được chứ gì? Hãy cầm lấy và đừng hỏi tại sao lại có nó.

         Thủy cầm trong tay gói cát đỏ vừa sờ sợ, vừa ngạc nhiên. Cô dốc một nắm ra tay: đúng thứ cát đỏ thẫm của mũi Né thật. Cô reo lên thích thú. Trong gói cát còn lẫn những vỏ sò óng ánh rất đẹp. Khi đến chơi với Thủy, Khánh tuyên bố thẳng đến để tìm hiểu cô. Còn nếu lúc nào cảm thấy khó chịu, chỉ cần nói một tiếng, anh sẽ không bao giờ đến nữa. Thủy chưa bao giờ nói với Khánh câu đó. Dường như cô lại thích sự sòng phẳng ấy. Nhiều lần, Thủy còn để Khánh đưa mình đi dạo mát trong thành phố hoặc ở nơi nào đó. Thật ra Khánh có phần chủ quan trong quan hệ với Thủy. Hình như anh thấy để yêu được Thủy không khó lắm. Bắt đầu từ những ý nghĩ đó, Khánh không những không cẩn thận và bài bản; mà anh lại có vẻ bông đùa. Chưa bao giờ Thủy thấy mình yêu thích Khánh, bởi thế, có lúc họ chạy đuổi nhau, và nô giỡn như những người bạn rất thân, lúc thả Thủy xuống sân trường, Khánh thường hỏi:

         – Thế nào em?

         – Chưa đâu!!!

         Họ đùa ngay cả trong khi chạm đến những việc quan trọng như vậy. Khánh lại nói với theo Thủy:

         – Hơi lâu đấy nhé.

         Và Thủy giơ nắm tay nhứ nhứ vào Khánh. Nhưng rồi một ngày gần đây, Thủy cũng chẳng vô tư được lâu trong tiếng cười sảng khoái của tình bạn. Mỗi kỷ niệm cứ làm cho họ gần nhau hơn. Giống như một cốc nước trong, mỗi ngày lại có một giọt máu rơi vào, khiến nó vẩn lên những màu sắc không còn sự trong suốt như trước. Cái tên Khánh dần dần có âm vang trong lòng Thủy. Nhất là sau dịp hai người đi thăm một di tích lịch sử và thắng cảnh cách Hà Nội non một trăm cây số. Có thể nói nếu đi chơi, là cuộc đi chơi sợ nhất của Thủy và cũng là thích nhất của cô.

         Hôm ấy, hai người xuất phát đi từ Hà Nội rất sớm. Họ mang theo đồ ăn và nước uống bỏ trong túi xách. Thong thả đi xe máy đến nơi, vào thăm đền, sau đó hai người theo những đôi thanh niên mặc áo đẹp, mất hút vào vùng rừng bạch đàn của miền trung du. Cô ngửa cổ lên nhìn thẳng vào khoảng xanh ngắt đến vô tận ấy. Càng đi sâu vào rừng, bạch đàn càng nhiều hơn. Hoa bạch đàn nhỏ li ti và rụng như có ai vãi vào vai, vào đầu họ. Hương vị của hoa của cây bạch đàn thoảng một mùi thơm nghe xa vời. Những làn gió thổi mạnh vào rừng, hòa tan thành âm thanh vi vút như hồi âm của tiếng sáo diều vọng lên trong ký ức. Hai người đi đến một bãi cỏ xanh và thơm mát. Đó là khoảng trống của rừng. Thủy như được tiếp cận tới ranh giới giữa con người và thiên nhiên. Cô cảm thấy điều gì đó mà khi ở Hà Nội, cô không hề có, Thủy bỗng thấy một bông hoa rất nhỏ. Bông hoa này chỉ bằng hạt gạo. Và có ai đã từng biết rằng cái loài hoa cực nhỏ ấy của thiên nhiên cũng có năm cánh. Trên mỗi cánh hoa, tạo hóa đã khéo chấm lên đó những vết màu rất nhỏ khiến bông hoa trở nên duyên dáng lạ kỳ.

         Say sưa và ngây ngất trong cuộc đi chơi, Thủy quên mất sáu giờ tối ngày hôm đó cô đã phải gặp một người có tuổi để bàn công việc quan trọng. Cô nói với Khánh, và anh vẫn bình thản như không, làm cô càng sốt ruột.

         – Sao anh Khánh? Ta đi thôi chứ?

         Khánh cười:

         – Sáu giờ tối anh ném em xuống sân trường là được chứ gì?

         Khánh lên xe máy. Anh để cho Thủy ngồi thật cẩn thận mới nổ máy. Anh ngoái cổ dặn:

         – Ôm cho thật chặt đấy.

         Thủy giãy lên. Cô rất ngại ngùng khi phải làm cái động tác ấy. Một lát sau, chiếc xe chạy nhanh làm Thủy sợ, không còn ngượng ngùng gì cả, cô ôm chặt cứng lấy người Khánh.

         Mãi mãi Thủy không bao giờ quên kỷ niệm hãi hùng này. Khi ra đến đường lớn, chiếc mô tô tăng tốc độ. Núi đồi, xóm làng, cánh đồng trôi vùn vụt qua mắt Thủy. Lợi dụng đà của bánh xe, Khánh đi số cao nhất, lại mồi thêm ga. Chiếc xe máy chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tiếng gió vèo vèo qua như những tiếng roi kêu vun vút. Thoạt đầu, Thủy tưởng Khánh đi tốc độ cao để dọa Thủy. Cô hét gọi Khánh. Tiếng của cô chưa nói ra miệng, gió đã cướp mất. Cô dùng tay bấm vào bụng Khánh. Anh không hề quay lại. Mặt Thủy tái đi, sợ hãi. Đã đến đoạn đường rộng và thoáng, Khánh vượt một chiếc xe tải. Thủy chỉ kịp nhận ra một khoảng tối xầm như trùm lên chiếc xe máy và tiếng va đập sầm sập của không khí, tim cô như thắt lại. Chiếc xe máy đã chạy ở tốc độ Thủy hoàn toàn kinh sợ. Gió quất vào mặt đau như ném cát. Qua những đoạn đường vòng, chiếc mô tô lượn góc lớn. Cả hai người như chỉ chờ rơi xuống mặt đường. Chiếc xe lại chồm lên, tiếng máy gào thét như con ngựa hăng máu. Thủy ôm cứng lấy Khánh, nước mắt cô trào ra. Chắc lần này sẽ chết. Thủy tự nghĩ như vậy. Tiếng phanh két chói tai làm Thủy kinh hoàng. Với tốc độ lớn như vậy, mỗi chiếc ô tô vượt qua, nghe tiếng ầm vừa mạnh vừa gọn như tiếng nổ. Gió đã ở mức sôi réo lên ào ạt như tiếng nước lũ chảy. Muôn vàn âm thanh phức tạp đập vào tai Thủy. Thủy sợ đến giàn giụa nước mắt. Cô ôm chặt lấy Khánh và cố chờ đợi cái giây phút cả hai cùng lăn vào bánh ô tô hoặc bay xuống sông. Cô lỳ ra như người biết chỉ một tý nữa mình sẽ chết…

         Khánh chọn con đường vắng nhất chạy vào khu trường. Sáu giờ kém hai mươi phút, chiếc xe đỗ két tại sân trường. Thủy mở mắt ra nhìn: cô vẫn ngồi im trên xe như một cái xác không hồn. Một hồi lâu cô mới cựa quậy, và đưa tay cho Khánh dìu xuống. Khi đã đứng xuống đất rồi, Thủy bước đi chực ngã. Một cơn giận hờn trong lòng Thủy lúc này chợt bốc lên. Mặt cô hết sức lạnh nhạt. Cô cảm thấy lẽ ra mình phải chết trên đường ô tô mới đúng. Khánh mời Thủy đi ăn một cái gì đó. Thủy lắc đầu rất nhẹ như muốn bảo: Tôi không cần. Cô không cho Khánh đưa mình về phòng. Khánh cười đùa giễu cợt Thủy. Thủy càng tức giận, một mình lê bước dọc hành lang.

         Một tuần liền Thủy không thèm gặp Khánh. Nhưng quả thật, lúc ấy, nỗi sợ hãi trong Thủy đã mất hết. Nhường lại cho sự căm ghét hôm trước là một cái gì đó thật mới mẻ, nẩy nở trong lòng cô.

         Hôm sau nữa Khánh lại đến thăm. Và cuối cuộc đến thăm, anh lại hỏi một cách vui vẻ:

         – Thế nào em?

         – Chưa đâu! Chúng ta vẫn chỉ là bạn thôi.

         Mặt Thủy hơi tái đi và nói một cách ngượng ngập. Cô chợt liếc nhìn Khánh. Anh vẫn tươi cười bước ra về. Vèo một cái, Thủy đã thấy anh lẫn vào dòng người cuồn cuộn ngoài phố. Chính lúc ấy Thủy chợt hối hận vì tại sao cô lại không đối đáp lưu loát được như những lần trước đây.

III

         Đa số những lúc không có mặt Khánh, Thủy vẫn thường nghĩ đến Cương. Đối với cô, mọi mặt, Cương như người thày, người anh rồi mới đến vị trí chàng trai mà cô yêu dấu. Ác thay, cô đã từng cảm nhận tình yêu ở anh, nhưng nó thành lời thề thốt, cô chưa được nghe bao giờ. Thủy vẫn chờ cái lúc ấy…

         Cương là con trai của một giáo sư nổi tiếng, hiện giờ ông đã đem gia đình vào nghỉ tận miền Nam. Ông để lại cho Cương cả căn phòng rộng ở đó đã có sẵn hàng nghìn cuốn sách, giường chiếu, bàn ghế và nồi niêu. Cương và Thủy cùng học một trường phổ thông. Do cảm phục sự thông minh của Cương mà Thủy đã yêu anh. Tình cảm của Thủy với anh cứ thấm tháp dần theo thời gian như một loại trái cây, sau ngày cánh hoa rụng đi, lớn lên rồi chín đỏ trên cành. Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp toán, Cương đã ra trường và dạy được hai năm. Anh dạy tại chính khu trường mà bố anh đã giảng dạy tại đó suốt mấy chục năm. Trong tháng tới, Cương đã phải đi xa. Anh phải học thêm tại nước ngoài ba năm nữa.

         Có lẽ ngày còn nhỏ, hai người gần gũi với nhau hơn. Thủy đã từng khóc, vì nhớ Cương khi anh phải theo bố đi nghỉ hè ở Sa Pa. Bố mẹ Thủy cũng rất yêu quý Cương. Mẹ cô nhiều lần đã từng thầm khen tính Cương dịu dàng, mát mẻ lại học giỏi có tiếng. Bà ước mơ có một đứa con như thế. Phải chăng tất cả điều đó đã tích góp lại như những tia nắng hội tụ qua lăng kính để tạo thành lửa, khiến Thủy càng ngày càng thấy mình có nhiều tình cảm với Cương?

         Lớn lên thành một chàng trai và một cô gái, tình cảm của họ không còn vồ vập ồn ào như trước. Cả hai đều ngỡ ngàng đón nhận những điều mới mẻ nảy sinh trong lòng. Chưa bao giờ Thủy lại thấy cuộc đời ngọt ngào và tươi đẹp như những ngày ấy. Những chiều thứ bảy, sau khi tắm rửa xong, mặc bộ quần áo thật đẹp, cô đến chỗ Cương rất sớm. Thường thì cô đi chợ, nấu ăn, dọn dẹp căn phòng. Cô làm tất cả những công việc nội chợ trong nhà ấy một cách say đắm. Cô thấy buổi chiều thứ sáu nào Cương cũng đến đón Thủy đi xem phim, xem triển lãm, hoặc đi dạo trong vườn hoa. Nhưng Thủy cứ chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy Cương hé ra một lời nói về tình yêu. Cùng lúc đó, nhìn lại quá khứ, Thủy bỗng chột dạ: Cương chỉ đến thăm Thủy vào ngày thứ sáu. Nếu cô đã yêu Cương hết mình thì anh vẫn bình thản đến hờ hững. Nếu cô đã yêu đến bất chấp, thì Cương lại lao vào chuyện học hành, say mê sách vở hơn chính cả cô gái mình yêu! Hai người ngày ấy như hai bánh răng không cùng một tốc độ quay. Dạo ấy, Thủy bắt đầu ngờ vực và thất vọng. Giá như Cương là người có tính ồn ào và cởi mở như Khánh, Thủy đã vặn vẹo và bắt buộc anh phải giải thích cho mình nghe tại sao như vậy. Nhưng với Cương, Thủy không thể điều gì cũng hỏi một cách dễ dàng như vậy. Thủy không thể tin được, và cũng không thể chấp nhận được người nào yêu cô, ngày chủ nhật lại giam mình trong phòng đọc sách hoặc là học. Cô có đặt vấn đề hoài nghi ghen tuông. Mấy chủ nhật liền cô đột ngột gõ cửa phòng Cương. Khi mở cửa, cô không thấy ai ngoài anh và cuốn sách đặt trên bàn. Phải chăng cô vồn vã quá? Thủy tự nghĩ, và từ ngày đó, Thủy không sang chỗ Cương đi chợ nấu ăn, dọn dẹp một cách dễ dàng như trước. Đồng thời, cô cũng có cảm giác Cương hơi cao so với tầm tay với của mình. Những mặc cảm ẩn kín trong lòng các cô gái bao giờ cũng có. Cô thở dài, và nghĩ: Anh ấy cao sang, còn mình thấp hèn, anh ấy sẽ thành giáo sư tiến sĩ còn mình chỉ là một cô bác sĩ mèng… Thủy bỗng như lùi xa Cương một đoạn.

         Cương tốt nghiệp trước Thủy hai năm. Ở đâu, anh cũng là người học rất giỏi. Anh đã tốt nghiệp với số điểm cao nhất trong những sinh viên Tổng hợp cùng thi trong năm. Lẽ ra nhà trường bố trí để Cương đi nghiên cứu sinh luôn. Nhưng Cương lại dạy hai năm để củng cố kiến thức trước khi đi học thêm. Kể từ khi ra trường, tính tình Cương lại trở lại như ngày còn bé. Anh vẫn dịu dàng, tươi mát như một người anh, người chị. Anh đã phá lệ đến chỗ Thủy vào ngày thứ sáu. Anh đến thăm Thủy nhiều hơn. Thậm chí đi ngang qua Cương cũng tạt vào thăm cô. Thủy cảm thấy rất rõ chính Cương đã đánh mất đi tình yêu nhiệt thành đến bốc lửa. Bắt buộc cô phải đứng vào tư thế thận trọng, suy nghĩ. Họ vẫn đưa nhau đi xem những cuốn phim vừa được chiếu tại Hà Nội. Nếu những cuộc đi xem ấy làm cho Cương vui vẻ và say mê bao nhiêu, Thủy lại ngẫm nghĩ và tư lự bấy nhiêu. Đó là những ngày Thủy phải suy nghĩ rất nhiều về tình yêu. Hay có thể nói, cái thời gian trong lòng Thủy đang diễn ra một cuộc đấu tranh quyết liệt, một sự cân nhắc đến lo lắng người bạn đời của mình sẽ là ai? Một trong hai người: anh ta là Khánh hay là Cương?

         Một hôm, ngồi một mình và rất buồn, Thủy hoàn toàn vô tình nghĩ ra cái trò chơi này. Cô viết hai chiếc thăm. Một ghi tên Khánh. Một ghi tên Cương. Cô gấp những chiếc thăm đó lại, xóc xóc trong tay, vừa nhắm mắt, vừa mỉm cười bắt một mẩu giấy đã được gấp kín. Cô đùa, nếu bắt được tên ai, người đó sẽ thuộc về cô. Vừa dở chiếc thăm vừa hồi hộp. Tờ giấy được giở ra và trong đó viết tên Khánh. Bỗng có một dòng tình cảm mạnh như dòng điện phản ứng, Thủy hơi bực bội trong lòng. Cô cay cú viết thăm lại một lần nữa. Và sau này, cô lại nhắm mắt chân thành như lần trước. Sự ngẫu nhiên tai hại: Thủy lại bắt phải tên Khánh. Cô định làm một lần thứ ba, nhưng lại thôi, cô vơ những mẩu giấy xé vụn như cám. Tuy đó là một trò chơi, và hết sức ngẫu nhiên, nhưng chính Thủy lại như đứa trẻ bịa ra kể chuyện ma xó rồi chính mình trở về nhà, lại sợ có con ma xó trong gầm giường. Những chiếc thăm gây một ấn tượng không nhỏ trong lòng Thủy.

         Dù sao, tình cảm của Thủy vẫn nghiêng về Cương. Cô vẫn có ý chờ đợi anh. Những ngày này đã thuộc vào những ngày cuối của khóa học, Thủy bắt đầu có tâm lý sốt ruột. Đêm ấy Cương đón Thủy đi xem vở “Âm mưu và tình yêu” của Sin-lơ. Hai người đang chăm chú theo dõi những tình tiết diễn biến của vở kịch, một nỗi giận vô cớ cứ dâng lên trong lòng Thủy. Nếu Cương chăm chú theo dõi những tình tiết diễn biến của vở kịch, thì Thủy lại chăm chú theo dõi từng cử động trên nét mặt Cương. Lần đầu tiên, cô bực tức và căm ghét con người mà cô đã từng yêu dấu và kính trọng. Từ quá bực tức, cô bỗng biến thành một trò chơi tai ác. Cô nghĩ: giữa lúc này, ta thử đòi về xem thái độ của Cương ra sao. Nếu Cương cũng chiều mình, ra về một cách ngoan ngoãn, Cương sẽ là của cô. Và nếu ngược lại? Thủy hơi bối rối. Nhưng ngay sau đó, cô nghĩ một cách mạnh dạn: Thì thôi! Và cô kéo tay Cương đòi về vào đúng lúc kịch đang hay nhất.

         – Ta về thôi anh.

         Cương hết sức ngạc nhiên:

         – Sao thế?

         – Chẳng sao cả. Em thích như thế.

         Cương nhận ra ở Thủy có một vẻ mặt rất lạ. Khi cô đã bước đi, Cương hốt hoảng đứng dậy đi theo. Anh liên tục hỏi:

         – Thủy ơi… em làm sao thế?

         – Em đã bảo chẳng sao mà lại.

         Rồi Thủy không chờ Cương, và cũng chẳng cần vào chỗ gửi xe, lấy chiếc xe đạp của mình. Cứ thế, cô ung dung đi bộ trên đường phố. Đèn điện sáng choang. Khoảng hai chục phút sau, Cương hai tay dắt hai xe đạp đã đuổi kịp cô gái. Anh hết sức băn khoăn và lo lắng:

         – Có phải em mệt không?

         – Không! Đã bảo chẳng sao mà lại.

         Thủy gắt lên, nhưng những dòng nước mắt lại chảy long lanh xuống gò má. Cương chớp mắt nhìn và quả thực anh không hiểu gì cả. Anh lại suy nghĩ theo một cách khác: Có thể đau bụng hoặc sốt mà mình không biết. Tại mình cả! Cương kết luận và dọc đường đi, anh bị cái mặc cảm ấy chi phối.

         Tất cả những sự kiện này diễn ra đúng vào những ngày Cương sắp đi học. Anh chuẩn bị bàn với Thủy về chuyện riêng của hai người. Điều mà Cương nấn ná mãi, chờ cho Thủy học tập xong xuôi mới dám nói. Anh muốn sau khi mình đi rồi, Thủy sẽ vào Nam nhận công tác. Ngày trở về nước, Cương sẽ chuyển hẳn vào một trường đại học trong đó. Anh rất muốn vợ chồng anh sau này sẽ được sống gần cha mẹ. Anh không thể hiểu được rằng vào cái thời điểm ấy, anh không còn là một chàng trai có quyền lực với Thủy như trước đây. Khánh đã ào đến, tuy về thời gian, sau anh, nhưng lại mạnh như cơn gió làm cây trở nên nghiêng ngả. Và thật không may cho Cương, cũng vào lúc ấy, anh nhận được điện ba anh ốm nặng. Anh sang báo cho Thủy biết lại đúng lúc cô đi vắng. Trở về thu xếp đồ đạc, trước khi ra tàu, anh chỉ kịp viết lại vài dòng chữ nhờ người bạn nếu Thủy đến, sẽ đưa cho cô.

         Vào đúng dịp bạn bè nhận công tác gần hết, cái lớp học của Thủy như bị tan nát. Cô ở trạng thái sốt ruột, nôn nóng. Chiều hôm ấy, chưa bao giờ cô lại mong chờ Cương đến như thế. Đã đôi ba lần Thủy định sang, rồi bạn bè lại ào đến kéo đi dự liên hoan chia tay chỗ này, chỗ khác, rối cả ruột lên. Rồi ngày hôm ấy qua đi lặng lẽ, sớm hôm sau, cô tức tốc đến nơi Cương làm việc. Cô chạy lên cầu thang, cánh cửa khóa chặt, chặn đứng cô lại như bức tượng đá… Thủy còn đang ngẩn ngơ thì anh bạn hàng xóm vẫn tươi cười với cô như mọi khi. Sau khi hỏi han đủ thứ loanh quanh, anh ta mới đưa cho Thủy mảnh giấy vốn được xé từ sổ tay.

         – Bố Cương ốm nặng. Anh ta về Nam rồi.

         Tâm trạng lúc đó của Thủy càng tan nát, hoang mang. Khi đọc lại những dòng chữ trong mảnh giấy nhỏ một lần nữa, cô mới thấy sự bực tức trỗi dây! Những dòng chữ đã to, lại viết nguệch ngoạc, không ký tên và cũng không có ngày tháng. Thế là hết! Cô hoàn toàn không hiểu  tại sao cô nói câu này.

         Thủy xác nhận: chưa bao giờ cô buồn như vậy. Cô rất muốn đi một mình. Cô đi chậm, vẻ mặt hờ hững, dọc những hàng cây xà cừ to cứ ngả nghiêng ven đường phố. Chính lúc đó Khánh phanh xe sát ngay cạnh, Thủy không hề biết. Khánh gọi to.

         – Này…! Say mê sáng tạo cái gì đấy?

         Anh cười toe toét. Thủy càng tăng nỗi bực mình quay ngoắt đi, Khánh cho xe dấn lên:

         – Nào, chúng ta đi đi.

         Thủy bực tức, gắt gỏng.

         – Không đi đâu cả.

         Khánh nhẹ nhàng xuống xe. Anh hỏi lại câu hỏi lâu nay vẫn thường nói:

         – Thế nào em? Quả chuông kia réo chưa?

         Thủy quay phắt lại. Cô nhìn thẳng vào mặt Khánh. Đôi mắt tóe lên giận dữ như cái nhìn trừng phạt. Cô đứng hẳn lại. Cái nhìn của cô im lặng và rất lâu. Khi tia mắt ấy dịu mát đi phần nào, là lúc cô quay mặt đi, Khánh vẫn không thèm chú ý đến  tất cả những vẻ mặt ấy. Đi bên Thủy, anh nói nhỏ:

         – Chúng ta đi chơi ở chỗ nào thật đẹp đi, thoáng đãng đi. Ra ngoại thành chẳng hạn.

         – Đi đâu?

         Một lần nữa. Thủy lại gắt lên, nhưng khẽ hơn. Khánh nổ máy xe, cô lại ngồi lên ghế sau một cách ngoan ngoãn. Chiếc xe lao đi như một mũi tên. Một hồi lâu sau Thủy mới nhận ra mình khóc. Cô lấy tay lau thật sạch mặt mũi. Thoáng một ý nghĩ, thế là hết. Lần thứ hai câu này dội lên lòng cô rõ ràng và âm vang như một lời tuyên bố.

         Toàn bộ cuộc đi chơi ấy của Thủy đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời. Hai người ngồi trên bờ đê nhìn xuống dòng sông Hồng đỏ ngầu, cuồn cuộn chảy xuôi. Thủy như một người không thiết tha gì cả. Mọi sự hoạt bát, tươi cười, cũng như sự bướng bỉnh Khánh vẫn thường thấy ở cô đã biến đâu mất. Ngồi bên cạnh anh, cô như cái xác không hồn. Anh nói gì cũng mặc. Anh làm gì cũng mặc. Mắt Thủy chỉ thấy một chiếc thuyền buồm xa xa, có một cô gái đang dùng hết sức mình chèo ngược gió. Cô vẫn nhận ra bàn tay rắn chắc của Khánh lần trong người cô. Một việc làm mà xưa nay cô chưa hề cho phép ai. Cô run lên từng đợt như người bị sốt. Mắt cô từ từ nhắm lại, và chỉ còn có thể biết những ngọn gió thổi từ sông Hồng lên bằng cảm giác của chính da thịt.

IV

         Ở nhiều người, việc lớn ở đời vẫn được kết thúc một cách đột ngột và lạ lùng như vậy. Mãi sau này, người ta cũng vẫn không thể hiểu được mình, và cũng không thể cắt nghĩa được lý do tại sao họ lại vào đời một cách nhanh chóng và đơn giản như vậy. Nhiều người, lại đổ vấy cho số mệnh. Thủy cũng y hệt như vậy. Đám cưới của hai người có gây sự ngạc nhiên cho bạn bè. Một số ít trong họ biết chắc chắn Thủy rất yêu Cương, anh chàng cao cao và có nước da trắng thường đến với cô vào ngày thứ sáu. Vì sự ngạc nhiên ấy mà đôi người nói chuyện Thủy yêu Cương, nhưng lại tổ chức cưới Khánh ra kể với nhau. Đám cưới được tổ chức sau hai chục ngày, khi Cương đi Nam ra. Nhiều người nói lại, Cương biết đầu đuôi sự việc, anh mỉm cười có vẻ bi đát. Nhưng rồi vẫn thấy anh đi lại, lên lớp giảng bài bình thường, cho đến ngày anh làm xong giấy tờ xin vào miền Nam, nơi cha anh đang ốm yếu, để giảng dạy.

         Dòng sông của thời gian lại cuốn đi tất cả những chuyện dữ dội, cũng như những chuyện bình thường của con người vào dĩ vãng. Rồi chính sau đó, bạn bè của Thủy đã quên ngay những chuyện rắc rối của bạn mình. Và Thủy cũng thế. Những mặc cảm ban đầu khiến cô hơi ngại ngùng khi tiếp xúc với những người quen cũng mất đi rất nhanh. Chỉ sống hơn một tháng với chồng, cô đã có những ý nghĩ mới mẻ. Bố Khánh dành cho hai đứa con của ông một căn phòng khi cô về làm dâu. Cô chỉ coi đó như phương tiện sinh hoạt hàng ngày. Nhưng cô vẫn nghĩ: Mình yêu Khánh và lấy Khánh hoàn toàn đúng. Những suy nghĩ ấy khiến Thủy yêu Khánh thêm, cô càng tự tin ở mình. Hàng ngày cô sống có phần tươi hơn trước. Người chạy việc làm cho Thủy là bố Khánh chứ không phải Khánh. Để con dâu an nhàn không phải va chạm với bệnh tật ốm đau thức đêm hôm, ông xin cho Thủy vào làm ngay Phòng Y tế của quận. Ông nói: Làm ở nơi này, ngày sau nếu có thai, đi bộ vài chục mét càng khỏe người.

         Qua nhiên sau ngày cưới hai tháng, Thủy có mang. Cô rất thích đi bộ từ nhà đến nơi làm việc. Mỗi lúc đi cơ quan, bao giờ cô cũng đi chậm, thung dung, vừa đi vừa nhìn những dòng người cuồn cuộn trôi trên đường phố Hà Nội như những dòng nước lũ. Nhiều lúc, cô cũng muốn tìm một gương mặt người quen, nhưng cô chưa bao giờ thấy họ. Cũng có thể ai cũng cắm cúi đạp xe rất nhanh, rất vội vã nên Thủy khó xác định. Cuộc sống êm đềm cứ ngọt ngào trôi qua đi từng ngày một. Cuối năm đó Thủy sinh một cháu trai kháu khỉnh. Hai người thống nhất đặt tên con là Thái.

         Vào những ngày đó, Thủy bắt đầu thấy chán nơi làm việc của mình. Những cái gì phải làm của cả tuần lễ chỉ cần dồn vào một ngày, thậm chí một buổi sáng, Thủy cũng có thể hoàn thành. Rỗi rãi, cô đan len, đọc sách. Rồi len cũng không có để đan, sách không có để đọc, những lúc chống rỗng, Thủy cảm thấy trong người bứt rứt, khó chịu. Cô khao khát một cái gì đó thật khó diễn tả. Một cái gì đó bên ngoài căn phòng, bên ngoài ô cửa sổ căn nhà hành chính. Một cái gì đó xanh tươi sống động và ngổn ngang của cuộc đời. Chung quanh Thủy, những chị, những bác đã lớn tuổi, họ yên phận với công việc nhàn hạ, yên ổn. Không ai than phiền về chỗ công tác của mình. Có một chị thấy Thủy hay ra cửa đứng, đi lại, vẻ mặt sốt ruột bèn khuyên.

         – Cô nên đi vào nhà cô Thủy ạ. Đừng đứng đó làm gì?

         Khánh hoàn toàn không lý giải được sao vợ mình bỗng trở nên khó tính. Hễ về đến nhà là cô chập vào con. Không có một lời nói ngọt ngào, một vẻ mặt niềm nở, không ra ngõ reo lên mỗi lúc anh về như trước đây. Để chiều vợ, nhiều khi Khánh đưa Thủy đi xem các bảo tàng, các triển lãm, đi công viên… Có một lần Thủy gặp được cô bạn. Thủy hét to lên để gọi, Khánh ngạc nhiên quay xe máy trở lại, Khánh quay mặt đi cho hai bạn tự do tâm sự nhưng nào họ có chuyện gì to tát đâu. Toàn những mẩu tâm sự nhỏ nhặt. Cô này lấy anh kia. Anh kia hắt hủi chị này. Với lại Khánh cũng rất bận. Chẳng hơi đâu anh quan tâm đến những chuyện đời vớ vẩn, đôi khi là cả một nhu cầu của phụ nữ.

         Khánh vẫn là con người như trước. Một tay làm ăn rất giỏi. Hầu như anh muốn thứ gì, anh có thể lấy ngay được thứ đó. Chỉ sau một hai năm ra trường, công tác tại nhà máy nọ, Khánh đưa về cho gia đình mình những đồ đạc bằng nửa tổng số giá trị những thứ bố Khánh giao cho con trước khi vào đời. Ông vừa lắc đầu vừa khen con trai:

         – Chết thật. Anh khá đấy. Bằng tuổi anh tôi chưa mua nổi chiếc xe đạp để dùng. Nhưng phải nhớ hết sức cẩn thận đấy. Thiên hạ đã dậy có ăn thì ăn non non thôi.

         Đôi khi Thủy nghe được những câu chuyện của hai cha con. Cô rất ít quan tâm đến công việc của họ. Thậm chí, cô cũng chẳng nghe hai bố con nói với nhau những gì khi họ uống rượu, uống trà . Những ý nghĩ chán ngán cơ quan đang làm, cứ nung nấu trong tâm can Thủy. Một hôm, cô mạnh bạo nói với bố chồng. Khánh cũng ngồi trên ghế. Anh chỉ liếc nhìn vợ, không nói gì. Còn bố Khánh, ông chín chắn hơn. Đặt ra nhiều giả thiết cho cô cân nhắc.

         – Thế con đã nghĩ kỹ chưa? Ở bệnh viện người ta giao cho trực đêm trực hôm, ngày mưa ngày gió, lại phải theo dõi những người bệnh hiểm nghèo thì sao?

         – Con làm được bố ạ.

         Thủy liều lĩnh trả lời. Ông bố Khánh chỉ cười nhẹ nhàng. Ông cho con dâu suy nghĩ nông nổi. Tuy thế, chiều con dâu, một lần nữa, ông lại xin cho Thủy vào làm trong một bệnh viện lớn ở Hà Nội.

V

         Được thay đổi chỗ làm việc, nhiều người bảo Thủy dại dột, nhưng cô cảm thấy mình được bước vào nhịp đời phóng khoáng. Thời gian qua, những thứ kiến thức sách vở trong cô đã bị một lớp bụi mỏng che mờ đi. Phải một thời gian ngắn sau, tiếp xúc với nghiệp vụ, tất cả những gì Thủy thu nhận được ở trường lớp, bắt đầu trỗi dậy. Vốn là một nữ sinh học giỏi thông minh, chẳng bao lâu, cô được tin tưởng là một bác sĩ có nghiệp vụ vững vàng. Một hôm, có một cháu gái năm tuổi rất kháu khỉnh được đưa đến bệnh viện cấp cứu. Người đưa đến là mẹ cháu. Chị ta khóc lóc kêu bác sĩ cứu chữa. Thủy phải gắt lên mới trấn an được người mẹ. Lúc này, chị ta mới cho Thủy biết trước đó khoảng một tuần, cháu lên cơn sốt và từ đó đến nay, hôm sốt, hôm cắt sốt. Nhưng đứa bé không ăn gì và luôn luôn ở trong tình trạng mệt mỏi, mê sảng.

         Thủy biết ngay cháu bé bị sung gan. Đặt cháu ngồi, không được. Bế nó cũng la hét vì đau. Chỉ có nằm xoài ra giường, đứa bé mới đỡ kêu hơn. Cháu gái ấy đã ở cái ranh giới giữa sự sống  và cái chết. Thủy vội đưa cháu vào cấp cứu. Đoán đúng bệnh, tiêm đúng thuốc. Gan của cháu bé đang sưng to, xẹp xuống, nhanh như quả bóng xì hơi, nó nằm ngủ vừa ngoan ngoãn vừa dễ chịu. Năm ngày sau bé Thu Hà, tên cháu gái, đã tươi tỉnh trở lại. Hôm xuất viện, người phụ nữ nọ đem con vào phòng Thủy, nước mắt lã chã, bắt Thu Hà khoanh tay chào mẹ Thủy. Quả thật nếu không nhanh chóng cấp cứu hôm đó, cháu Thu Hà đã không còn có mặt trên cuộc đời này. Thủy đã tái sinh ra nó. Nó gọi Thủy là mẹ, có gì đáng ngạc nhiên? Thủy cảm nhận ý nghĩ đó một cách dễ chịu.

         Khánh hoàn toàn thấy vợ mình ngược đời. Chỉ có cô ta vui vẻ khi xông vào chỗ vất vả mà thôi. Hôm Khánh đi làm về, nghe tiếng xe máy nổ lục bục đầu ngõ, Thủy đã bế xốc thằng Hoàng Thái chạy ra đón bố. Thủy áp cả mặt con và mặt mình vào mái tóc bù xù như chú gấu Ô-lem-pích của Khánh. Mặt Khánh sáng dần lên như ngọn đèn được tăng điện:

         – Em có gì mà vui thế?

         – Chẳng có gì cả. Em thấy vui là vui thôi.

         Hỏi một đằng, Khánh lại hiểu một nẻo. Anh hiểu theo ý mình. Chắc ở bệnh viện, được làm việc cô thấy khoan khoái hơn là ngồi bó gối ở căn phòng hành chính. Khánh vẫn biết trong mỗi con người đều tồn tại cái nhu cầu đó, nhu cầu được lao động.

         Hay nói cho khoa học, đó là thứ giải phóng năng lượng tích tụ trong cơ thể bằng lao động.

         Thủy vẫn đi làm đều đặn. Cô mang theo cơm để nghỉ trưa tại bệnh viện. Chỗ làm việc đem lại cho cô cả niềm vui và nỗi buồn. Tuy thế, cô vẫn thích thú hơn là giam mình trong căn nhà hành chính. Không hiểu vì lý do gì đã gây ấn tượng khiến cô sợ căn phòng nơi cô làm việc cũ đến thế. Ở đó không có ai trù ghét cô, và cũng không có gì khiến cô phải suy nghĩ. Thế mà lúc này đã về bệnh viện, cô lại sợ căn phòng ấy. Một căn phòng mênh mông và lạnh lẽo, mỗi người cách xa nhau bằng nhiệm vụ riêng biệt của mình. Làm tại bệnh viện một thời gian dài, Thủy mới biết lòng mình bất ổn định. Cô thấy ruột nóng bỏng như triền miên trong cơn khát. Hay mình nghén? Vô lý! Cô đi lấy thuốc đông y uống để giải nhiệt. Nhưng trạng thái trong cơ thể cô vẫn nôn nóng, hồi hộp một cách kỳ lạ. Trong người cô thiếu một cái gì đó, khiến cô nghẹn thở như thiếu không khí.

         Một hôm, cô đang đứng thẫn thờ trên hành lang, bỗng có tiếng gọi.

         – Cương.

         Tiếng ai đó vừa to vừa xa.

         Thủy giật mình kinh sợ. Mặt cô tái đi. Cương nào? Cô nhìn vẻ mặt người đàn ông vừa gọi, đang ló mặt tươi cười từ trên gác hai chạy xuống. Thủy hoàn toàn trong trạng thái thổn thức. Cô bước xuống sân: và cô nhầm. Người có tên là Cương đó là một cô gái. Thân thể Thủy bỗng nhiên lạnh toát.

         Có lẽ bắt đầu từ hôm đó, cái tên Cương cứ trỗi dậy trong lòng cô, ám ảnh cô như ngọn đèn trong đêm cứ to dần, to dần. Không biết giờ này anh ấy ở đâu? Anh sống ra sao? Chính cuộc sống hàng ngày cứ cuốn Thủy đi, cô luôn bận rộn với bé Thái, với Khánh, với bệnh viện, chẳng phải lúc nào cũng suy nghĩ về quá khứ và day dứt với những kỷ niệm hão huyền. Với lại, chắc chắn Cương sẽ hạnh phúc hơn Thủy và Khánh. Một con người có tài như Cương, anh sẽ đi rất xa trong tương lai của mình. Bây giờ hẳn anh ta không thèm nhớ đến mình nữa. Với ý nghĩ ấy, Thủy cảm thấy bình tĩnh hơn, tự tin hơn.

         Vào cuối năm đó, có một người bạn học được chuyển về Hà Nội công tác, cô ta vội vã đến tìm gặp Thủy tại bệnh viện. Cô bạn Thủy là kỹ sư thông tin. Cô cho biết, phải tìm Thủy ngay để nếu con cái có ốm đau nhờ vả bạn. Họ nói ra điều đó thẳng thắn như vậy. Thủy rất vui vẻ hứa:

         – Cháu ốm cứ đưa đến đây. Đừng ngại điều gì.

         Hai người bạn kéo nhau vào nhà nói chuyện. Những tin tức về bạn bè cùng lứa cứ làm Thủy ngẩn ngơ. Có cô đã hai con. Có anh vào quân đội, hy sinh tại Cam-pu-chia. Cả hai cùng thở dài với nhau trong phòng. Cuộc đời mỗi năm một biến đổi kỳ lạ. Hai người bạn gái lặng đi trong phòng. Có lúc, yên tĩnh đến mức họ chợt nhận ra tiếng tích tắc đều đặn của chiếc đồng hồ. Một biểu tượng của thời gian đang trôi đi, có thể hình dung như dòng sông trong cái hành trình vô tận của nó.

         – Này…

         Bạn Thủy bỗng gọi giật lên.

         – Cậu có nhớ Cương không?

         – Có chứ.

         Mặt Thủy thẳng thốt. Giây phút chờ đợi người bạn nói tiếp rất ngắn và căng thẳng.

         – Anh ấy đã làm xong luận án tiến sĩ rồi đấy!

         – Thật à?

         Vợ anh ấy là một công nhân, gầy và xấu. Thằng bé con nhà anh ấy rất khá, nhưng đời sống không dư dả mấy…

         – Đi nước ngoài về kia mà?

         – Ăn thua gì với tốc độ tiêu pha trong đó?

         Tâm hồn Thủy bị rung động mãnh liệt. Nghe xong câu chuyện của người bạn, Thủy trút một hơi thở dài. Cả ngày hôm đó, có thể nói, cả tuần ấy Thủy sống trầm lặng trong những ý nghĩ về Cương, người bạn cũ, lẫn lộn vui buồn.

 

 

 

TIẾNG CHIM

         Chúng tôi có tất cả sáu cô gái. To béo nhất là Cúc đen. Nhiều tuổi nhất là chị Phương, ngoài ba mươi. Chúng tôi ở một căn nhà sâu trong rừng săng lẻ, nhìn xuống là một sườn đồi, một dòng suối, đến con đường ô tô và xa hơn là mỏm núi cao chót vót. Ai đến đây một lần cũng gọi xứ này bằng cái tên rất hoa lá: Thung lũng tiếng chim.

         Ở đây nhiều chim thật. Những đôi chim cu rúc xanh trên ngọn săng lẻ kêu rục rục bằng thứ ngôn ngữ đến nôn nao ruột gan. Ấy là sắp vào trưa, có thể nghỉ việc về nấu cơm. Bầy chào mào láo nháo như chợ vỡ ven những bờ tre rừng ven suối. Riêng con bìm bịp có tiêng kêu chìm hẳn vào không gian của buổi chiều. Rừng vụt trở nên mênh mông. Chú gõ kiến đập mỏ công cốc vào thân cây khô. Những con gà rừng cục tác đó đây, và đôi chim từ quy chiều chiều đã gọi nhau, cho đến sáng chúng vẫn gọi nhau trong những lùm cây xa xa…

         Đơn vị tôi đang rải một con đường ống vào mặt trận. Mười cây số một tổ. Tổ nam ở sâu vùng trong. Chúng tôi, con gái ở vùng ngoài. Tuy vậy, vẫn đèo cao, suối sâu. Máy bay suốt ngày ầm ì trinh sát.

         Sáng nào cũng vậy, sáu chị em đều vác ống đi cả. Đi đầu là Cúc đen, lúc lắc thân hình to lớn, hát nghêu ngao:

Thì anh cứ yêu em đi

Rồi anh sẽ thấy những gì đáng yêu…

         Cúc rất nghịch, tưởng vô tư nhưng lại hay buồn, Cúc đen vô cùng quan trọng đối với chúng tôi. Tuy rất lười nấu cơm, lười quét nhà, nhưng trộm vía, Cúc bạo lắm. Nửa đêm, chúng tôi đố Cúc dám xuống suối nước (vì dưới đấy, đêm thường có lắm rắn rết bò ra kiếm mồi). Nó mở cửa đi thẳng ra suối, lại còn sách hẳn một xô nước về tận nhà. Dạo tổ ống của chúng tôi vừa chuyển đến đây, ngày đầu phạt cây mắc võng ngủ, đứa nào cũng sợ, phải đốt đống lửa thật to cho yên tâm. Mặt đứa nào cũng tỏ ra thản nhiên, nhưng chỉ cần dọa một tiếng, mấy đứa con gái chúng tôi sẽ thi nhau mà chạy. Lúc đó ai cũng nghĩ đến Cúc. Hôm ấy nó nằm viện, tại cô nàng trèo dâu bị ngã bong gân.

         Đường ống của ta có hai loại. Ống Liên Xô ba lăm cân, tôi vác được. Riêng ống của Việt Nam bảy mươi cân bằng sắt đen sì thì chỉ có Cúc mới nâng nổi. Những lúc đó, Cúc vác đỡ cho chúng tôi. Chúng tôi rất yêu mến Cúc. Hay trêu Cúc cũng chỉ vì rất yêu nó mà thôi.

         Đêm qua, tôi và Cúc giận nhau. Đúng là chuyện vặt của mấy đứa con gái. Nó cãi: “Con gái Hải Phòng đẹp hơn con gái Hà Nội”. Tôi lại cho: “Con gái Hà Nội đẹp hơn con gái Hải Phòng”. Đến lúc một đứa nói: “Cậu cóc biết!”. Đứa kia cũng bảo: “Cậu cóc biết!”. Thế là nó dỗi. Đêm không thèm ngủ chung với tôi. Sáng cũng không ríu rít gọi tôi đi làm như mọi khi.

         Chiều, rừng vẫn nhiều tiếng ve. Chúng tôi lội suối đến chân núi Voi. Mặt rừng đang thoai thoải lên dốc, đột ngột dựng lên những vách đá lởm chởm. Những vỉa đá to nằm ngang tàng, chạy suốt chân núi cao. Địa hình rất phức tạp. Đường ống quặp thẳng vào núi. Bắt đoạn nối thành chữ V, cây đường ống lại chĩa lên trời như nòng đại bác sắp bắn ở góc độ lớn. Chị Phương cầm cờ lê bắt ngoằm, gioang cao su, vặn ốc. Chị vừa đóng ốc cành cạch vừa nói rất to, điều chỉnh:

         – Sát lại. Sát lại nữa. Bên phải một tý. Đừng run. Run là chệch ngay.

         Ba đứa chúng tôi xúm nâng một đầu ống. Mình Cúc đen đỡ đầu ống bên kia. Nó doạng chân, giơ hai tay, dốc toàn lực nâng cây ống như một lực sĩ cử tạ. Hàng chục phút mới bắt nổi một đầu ống ở đám đất chênh vênh ấy. Chúng tôi thở phào, giải lao. Quần áo ướt đẫm mồ hôi.

         Cúc đen lẳng lặng chèo lên một tảng đá phẳng. Giá như mọi hôm, nó đã gọi tôi (giận dai ghớm!). Trên tảng đá có một cành cây sà xuống với tay được. Cúc nằm lăn ra nghỉ, chân khẽ đạp lên cành cây đung đưa.

         Tôi đùa, hét rất to để chọc Cúc (ra điều tao vẫn vui đây, không buồn một tý nào). Chúng tôi rủ nhau ném một tổ ong vàng. Không ngờ ong bay ra rào rào. Đứa nào đứa nấy vội vàng rúc đầu vào bụi. Cúc bị ong đốt. Nó kêu toáng lên. Chị Phương đang cặm cụi nhặt rau lốt ngẩng đầu lên mắng cho một mẻ. Cúc cũng xa xả mắng theo. Chúng tôi nhe răng ra cười. Thế là hòa cả làng!

         Đêm những tiếng bom nổ xa ùng ùng. Không can hệ gì đến mình. Chúng tôi thắp đèn thật sáng, đóng cửa lại, đánh bài “tiến lên”.

         Đứa nào thua phải đem ba lô và mũ. Ác nhất là vẽ râu bằng nhọ nồi lên mặt. Phần nhiều những cuộc chơi bài này, Cúc thua be bét. Trông Cúc mà thương. Chơi bài, mồ hôi vẫn toát ra đầm đìa trên mặt. Nó đeo mấy chiếc ba lô liền. Đến lúc vẽ râu càng buồn cười hơn. Một vệt bên trái. Ván sau thua nữa, chúng tôi đè Cúc ra vẽ râu quai nón. Cúc hất một cái, chúng tôi đổ kềnh tuốt ra giường.

                  – Tao không chơi nữa… Không chơi nữa.

Sau những trận cười đến đứt ruột, chúng tôi ngồi thở. Vui nhưng mệt. Cúc chống tay đứng ở cửa. Rừng một màu đen thẫm. Những vì sao lọt qua tán rừng long lanh thêm. Đôi chim từ quy vẫn gọi nhau. Con đầu suối, con tận bên kia đường. Lặng lẽ, chốc lát, cơn gió hoang của rừng quẩn vào nhà khẽ rung bức tranh treo vách.

         … Cúc yêu một anh pháo thủ đang chiến đấu rất xa. Anh ta tên là Hoàng. Cũng vào loại to và cao. Anh rất hay viết thư về đây. Có những lá thư anh viết chung cho chúng tôi. Tôi biết Cúc, ngày đó, Cúc suôn sẻ, xinh xắn. Tôi tin ngay lời Cúc. Bởi theo tôi, Cúc chỉ bớt to, bớt đen đi một chút nữa, cô nàng sẽ ưng mắt khối người. Họ xa nhau đã ba năm. Mấy ngày nay, Cúc sống không yên. Ngày đi vác ống lên đèo, rất hay đùa, nhưng không phải là vui. Một tháng nay Hoàng không có thư về. Chiều chiều. Cúc vẫn ngóng về cuối con đường xe lên. Cúc chờ chiếc ô tô mà đơn vị thường hay gửi thư lên cho những cô gái. Có hôm nóng ruột. Cúc rủ tôi ra đầu đường đứng. Đến tối mịt, hai đứa mới kéo nhau về…

         Cúc lững thững đến cạnh máy điện thoại. Nó lại chọc mấy ông thông tin đường dây trời đây. Nó bịt mũi, giả giọng đàn ông, ồm ồm nói vào máy điện thoại:

         – Chào ồng.

         Anh bộ đội bên kia máy lúng túng:

         – Chào ông.

         – Cạc ông ăn cơm chưa?

         Anh chiến sĩ phát hiện ra tiếng con gái, hét to:

         – Này bà lão nào đấy?

         – Chị đây mà.

         Cúc cười ầm lên. Nó không đùa nữa. Nó lại cạnh tôi, sợ xấu hổ vẫn không dám làm lành. Tôi bỗng thương Cúc lạ, muốn ôm lấy nó nhưng lại ngại. Tôi ngồi dịch tới cạnh Cúc, hỏi nhỏ:

         – Hết giận chưa?

         Cúc nguýt tôi một cái rồi ôm chầm lấy tôi. Ở đây Cúc hay nghe lời tôi và chị Phương. Chúng tôi nằm kềnh ra giường. Mái tóc trước mặt nó rối bời. Đôi mắt nó đẹp nhất. Tôi vẫn khen đôi mắt đen láy ấy từ lâu. Nó hỏi tôi, hơi ấm phả qua mặt:

         – Nga ơi!

         – Cái gì cơ?

         – Tao hỏi thật nhé.

         Cúc lưỡng lự giây lát:

         – Tao có xấu thật không, Nga?

         Tôi mắng:

         – Vớ vẩn. Ai bảo mày xấu?

         Nghe tôi nói, Cúc vui sướng lắm. Nó ôm chầm lấy tôi, bồi hồi. Thế là Cúc lại kể về Hoàng, về những kỷ niệm cỏn con ngày hai đứa còn bé. Cúc và Hoàng cùng xóm, đã từng cùng nhau chui vào vườn bà hàng xóm vặt cam non. Những chiều có chiếu phim, mới hai giờ, trời nắng chang chang đã kéo nhau ôm rơm ra sân đình đánh dấu chiếm chỗ. Mặt trời chưa lặn đã chốn mẹ, bỏ cơm đi xem. Nhưng phim chưa kịp chiếu đã ngủ lăn ngủ lóc…

         Khác chúng tôi, chị Phương sống cứng rắn hơn. Hầu như suốt ngày chị bận bịu. Ngày đi làm, chiều, sáng lo toan cơm nước. Chị vẫn giữ được những nét đậm đà, tươi mát của một người con gái có nhan sắc. Dáng dấp của chị toát lên một vẻ đẹp dầu dãi, siêng năng. Đối với chúng tôi, chị rất nghiêm, nhưng cũng rất chiều. Đứng trước chị, chúng tôi như một bầy trẻ nhỏ tung tăng đùa nghịch, vòi vĩnh, làm nũng. Quá lời, chúng tôi cãi nhau, chị cũng phải phân giải. Ngày lễ đứa nào nhớ nhà khóc, chị cũng dỗ dành. Chị thêu giỏi lắm. Chị tập cho chúng tôi đan những kiểu mũ trẻ con rất đẹp. Đêm đêm, chị vẫn thắp đèn rất khuya trong góc nhà. Có hôm chị viết báo cáo. Có hôm chị soạn lại nghị quyết chi đoàn. Cũng có lúc chị xem báo.

         Cho đến nay, chị Phương vẫn chưa chịu lấy chồng, ít người biết chuyện riêng của chị lắm. Người yêu chị cũng là một anh bộ đội cùng quê. Anh hy sinh trong một chiến dịch ta tiến công vào Sài Gòn năm 1968. Chị còn giữ một chồng thư dày hơn một gang tay của anh. Chồng thư chị vẫn gói kỹ trong chiếc khăn mùi xoa thêu đậm hai chữ màu hồng: Thủy chung.

         Chuyện xảy ra vào một buổi sớm, chúng tôi đang khênh máy vận hành lên núi cao. Cái tin sét đánh ấy đến cùng lá thư người bạn anh. Đọc mấy dòng đầu chị Phương hốt hoảng gấp lại. Chị đánh rơi chiếc đòn khênh đánh xoảng một cái xuống vực. Chị ốm một trận rất nặng. Đơn vị đưa chị lên trạm quân y sư đoàn. Một tháng sau đó, chị Phương mới trở về đơn vị. Chị lại đi vác ống cùng chúng tôi. Lại những cuộc hành quân vào rừng sâu. Lại những đêm mắc võng ngủ dọc đường. Vui với một trò đùa của lính. Xúm bên nồi cơm, nồi rau rừng làm canh. Nỗi buồn không mất đi. Nhưng niềm vui mỗi ngày một trở lại. Chị cũng hiểu. Trong đơn vị nhỏ này, thực ra là tất cả mọi người, qua cuộc chiến tranh, ai chẳng phải gánh chịu một phần mất mát? Như cái Thu, cái Thanh, như chị Minh, cô Bến… Các anh ấy cũng đã ngã xuống trên trận địa xa xôi. Sau này chị bảo: Thật xấu hổ vì chị đã trót khóc nhiều quá.

         Chúng tôi rút khỏi mặt trận miền Tây. Lại tham gia bắt đường ống chạy dọc Trường Sơn Đông. Suốt năm tháng đó, nhiều người đã ngỏ lời với chị Phương. Chị đều gạt đi. Hai năm gần đây, ai cũng giật mình hỏi nhau: “Thế đến bao giờ chị Phương mới lấy chồng?…”.

         Trong nhiều người hay đến thăm chị, tôi chú ý anh tiểu đoàn phó công binh. Anh hay mua quà cho chị Phương. Khi một chiếc nón, lúc đôi dép, hay một cuộn chỉ màu. Tôi quan sát từ cách đi đứng, nói năng của hai người này mà lo lắng thay cho chị. Không biết hai người đã nhất trí với nhau chưa? Tôi ngắm chị Phương tiễn anh tiểu đoàn phó ra ngõ. Họ đi chơi và chuyện rất vui. Đến lúc chia tay, anh tiểu đoàn phó bắt tay chị Phương khiến tôi thất vọng. Yêu nhau người ta không tạm biệt như vậy.

         Tôi tò mò hỏi, chị Phương im lặng. Rồi một hôm chị bảo: “Chị có thể lấy anh ấy. Chị chưa nhận lời vì chị nghĩ: Anh ấy biết chị không hề yêu anh”.

         Suốt cả cuộc chiến tranh chống Mỹ gian khổ và ác liệt, con đường ống dài vô tận đã qua vai chúng tôi đi rất xa. Vào tận vùng Hạ Lào. Đến giáp mặt trận Tây Nguyên… Không hề có một sự ngăn trở, không hề có một khó khăn…

*

         Những buổi sớm dậy thật đẹp. Mặt rừng dốc, cao ráo sạch sẽ, không khí cũng trong lành. Dòng suối buổi sáng không ồ ạt như buổi tối. Nó rót khe khẽ xuống dòng thung lũng, âm thanh như bừng lên đồng loạt. Bầy chào mào hàng trăm con đùa nhau chí chóe trên bụi cây. Con đét đa đa cất một nhịp rất mạnh, ấy là lời thách thức. Chú gà đập cánh gáy chững chạc. Con cu rúc kêu, chim gõ kiến gạt mỏ cồng cộc trên thân cây khô. Chúng tôi ăn cơm sáng khi đôi chim từ quy vẫn gọi nhau tha thiết. Rừng vụt thiêng liêng sâu thẳm như có linh hồn.

         Nồi cơm đặt trên thềm. Chúng tôi lanh chanh giành chỗ ngồi. Chưa ăn xong, chị Phương đã ném một ôm xà cạp ra sân. Chị cặp tóc cho gọn rồi đi xà cạp. Quần vén sát đùi, xà cạp kéo chật ních. Ở đây nhiều vắt. Chúng tôi vội cất bát đũa, quấn xà cạp. Cúc đen bảo: “Con cọp còn chẳng sợ, lại đi sợ mấy con vắt”. Vắt bám vào chân, nó chỉ véo một cái, vứt đi là xong.

         Một cô gái giơ đôi xà cạp của Cúc đen lên, đùa:

         – Chúng mày ơi, đổ gạo ra đâu mà bao tải vứt đây?

         Cúc nói thản nhiên:

         – Chà! Cứ to nữa vào. Càng thích. Thiên hạ phải cần những người to khỏe như tao mới làm được việc lay trời chuyển đất.

         Chị Phương lừ mắt. Chị biết Cúc rất sợ những câu đùa ấy. Chị cấm chúng tôi nói những câu như vậy.

         Chị quay lại bảo Cúc:

         – Hôm nay đến lượt Cúc trực bếp rồi.

         – Thế à chị? Ngại quá nhỉ. Đứa nào nấu cơm hộ tao, tao vác ống cho cả ngày.

         – Tao.

         – Tao.

         – Lười như thế thì Hoàng nó “ứ” vào.

         Chúng tôi ra rừng sương đang tan, kẽ lá hở những tia nắng mang hơi lửa nóng bỏng. Một đống ống to, sương ướt đẫm. Tất cả vén tay áo, buộc tóc. Cúc dơ chân xô đổ đống ống. Nó xếp riêng những ống sắt màu đen bảy mươi cân ra một chỗ. Nó nâng một đoạn lên vai nhún nhảy. Đám đất chịu một sức nặng, lún xuống. Nó đi mấy bước, quát:

         – Tếu mãi thôi! Đi.

         Chúng tôi xuống dốc. Lội qua suối. Đi chếch lên sườn núi. Đến khe đá. Chỗ này phải tập trung người mới đưa ống qua khe được. Cúc trèo sang bờ bên kia. Khe đá tự nhiên, những mõm đá nhọn hoắt, chĩa tua tủa như cắm những lưỡi mác. Bốn đứa một bên, một mình Cúc một bên. Vừa hai, ba, đầu ống bên này thò sang, Cúc đã túm lấy kéo sườn sượt. Nó xô mạnh một cái. Đoạn đường ống loảng xoảng, trượt hẳn một đoạn dài.

         Mỗi buổi sáng, chúng tôi vác được ba ống. Sáu người, vị chi mười tám ống. Chiều sẽ đi bắt ốc. Sáng nay, lúc giải lao, Cúc kéo tôi lên phiến đá. Chao ôi! Mát lạnh. Một cành cây sà thấp quệt ngang mặt. Hai đứa chúng tôi nằm nói chuyện huyên thuyên một hồi. Cuối cùng câu chuyện lại quay về Hoàng.

         – Tao chỉ yêu một lần thôi. Nga ạ.

         – Thế mới tốt.

         – Này!

         – Hả!

         – Thế cái a-xít gì nhỉ? A-xít lắc-tích à? Nó có giảm béo thật không? Nó ở đâu ra hả?

         Tôi cười rất to, đấm cái Cúc mấy cái.

*

         Đêm nay, chị Phương dạy thêu mũ trẻ con tặng đám cưới cho một cô ở tổ dưới. Ngọn đèn nhỏ vừa sáng, soi rõ gương mặt trắng hiền hậu của chị. Tôi có cảm giác chị Phương vẫn sống chỉ để đem lại niềm vui và niềm an ủi cho người khác.

Một tuần nay chị Phương dạy chúng tôi lồng hoa ở phần ngực áo len. Thôi đánh “tiến lên”. Chúng tôi lần lượt đem “bài” cho chị kiểm tra. Chị cầm chiếc áo tôi đan, mỉm cười khen:

         – Được. Em đan khéo đấy. Cứ thế nhé. Lần sau nên đi sợi đơn. Đi sợi đôi, thô, không đẹp.

         Đến lượt Cúc. Chiếc áo Cúc đan, bông hoa không chụm thành cánh mà kéo dạng ra. Tôi phì cười. Cúc đỏ mặt đấm tôi. Chị Phương kéo Cúc lại. Phần trên phải chụm nữa cơ. Rõ chưa?

         – Dạ.

         Tôi nhìn Cúc mà thấy thương thương. Chao ôi, nó chỉ không khéo tay thôi. Còn nó tốt lắm. Tốt vô cùng. Nó sẽ là đứa con gái hết lòng cho tình yêu. Tất nhiên tôi vẫn tin Hoàng, mặc dù hai tháng nay nó chưa nhận được thư anh. Chắc anh bận chiến dịch.

         Ba chị em chúng tôi nằm xuống giường. Thỉnh thoảng Cúc lại đấm thình thịch vào vách trêu mấy đứa viết thư cho người yêu ở gian bên. Cúc quay lại chị Phương vui vẻ:

         – Bao giờ chúng em tổ chức, mời chị Phương với Nga về dự nhé. Làng em có cái đầm to, quanh bờ giồng vô khối dừa, quả to bằng cái mũ một.

         – Chị sẽ về.

         Cúc quay người nhổm đầu lên. Nét mặt của nó thay đổi rất nhanh.

         Cái vẻ vô tư biến thành bối rối. Chợt nó hỏi nhỏ:

         – Chị ơi!

         – Cái gì, em?

         – Ta còn bao nhiêu ống nữa?

         – Sáu trăm. Em hỏi làm gì?

         – Em thấy sốt ruột.

         Im lặng một lát.

         – Chị ơi!

         – Cái gì, em?

         – Có phải người ta bảo yêu nhau quá cũng không lấy được nhau hả chị?

         – Nói bậy! Ai bảo? Em không được tin như thế.

         Tôi rất lo khi phải nghe những câu nói mà Cúc thốt ra như vậy. Những câu nói gây ấn tượng cho tôi rất mạnh. Bỗng dưng tôi có một ý định điên rồ. Tôi sẽ viết thư cho Hoàng. Tôi sẽ nói về Cúc cho anh biết. Ngày mai. Nhất định tôi sẽ viết.

         Nhưng đến sáng, cũng như mọi sáng khác, sáu chị em lại đi vác ống. Tuyến đường ống vươn mình qua bao nhiêu rừng sâu, núi cao. Sáu chúng tôi, đi đầu vẫn là chị Phương, xăm xắm, bận rộn. Đi sau vẫn là Cúc. Nó vừa đi vừa hát:

Thì anh cứ yêu em đi,

Rồi anh sẽ thấy những gì đáng yêu…

         Một chốc, sẽ nghe từ sâu trong rừng: Tiếng ống loảng xoảng, tiếng cười của chúng tôi – những người con gái, tiếng chim – những âm thanh vang xa của rừng.

 

 

 

MIỀN ĐẤT NGỌT

I

         Sớm chủ nhật, Quang lên nhà chỉ huy tiểu đoàn xin phép được ra phố một ngày. Tiểu đoàn trưởng Doãn thường hay dễ dãi với những chiến sĩ mà ông thích. Quang là một trong số những người đó. Những thằng con trai như thế này – Ông nghĩ về Quang – chắc chắn sẽ không đến nỗi. Không hiểu vì đâu tiểu đoàn trưởng Doãn lại đặc biệt thích những chàng trai thông minh, sớm hiểu biết và ít nói như Quang. Bởi vậy không những Doãn đồng ý cho Quang mà ông còn đùa, mắt ánh lên những tia sáng trẻ trung.

         – Hẳn là đi với bồ chắc?

         Thế là Quang đi. Phố Lê sớm hôm ấy thật là nhộn nhịp, tươi tắn. Các cô gái đi trên thềm cái phố huyện nhỏ bé ấy ai cũng mặc đẹp. Từng đám các chị và các anh dừng lại xem những hàng treo trong những quán hàng ở mặt phố. Họ chẳng mua gì cả. Họ chỉ thích xem chán rồi đi. Hết dòng người này đến dòng người khác. Đôi lúc có chiếc ô tô chạy vù qua. Một đàn vịt nhà ai đã chạy từ bên này đường rồi lại chạy trở lại.

         Quang gặp Sáng trong một quán nhỏ. Anh bạn bốc trời này cùng quê và cùng sư đoàn với Quang. Hắn đang lái xe cho sư bộ. Sáng kéo Quang vào quán, ép Quang ăn hết một nải chuối. Vừa ăn chuối, Quang vừa nghe Sáng nói chuyện. Anh chưa hề tin cậu ta nói điều gì nhưng vẫn nghe, vẫn cười. Đang kể về một vụ cướp ở Hà Nội, Sáng đã chỉ ra chiếc ô tô mới nhận của mình đỗ ở vệ đường rồi ca ngợi:

         – Hết ý mày ạ, trông to thế mà gọn nhẹ và “hay” không kém loại “u oát” nhé. Tao về Hà Nội lấy hàng đây. Hay mày về với tao?

         – Về đâu?

         – Về nhà!

         Quang cười. Sáng chồm lên như vừa nghĩ ra điều gì.

         – Phải đấy. Đi với tao. Mày xuống Hà Nội đi tàu về nhà, dám không?

         – Chịu…

         Quang lắc đầu. Trong hai năm tại ngũ Quang chưa hề có khái niệm bỏ trốn về nhà. Anh cũng cho là Sáng nói đùa. Nhưng Sáng không đùa.

         – Đi đi. Ngốc lắm. Trốn bảy ngày, cảnh cáo tiểu đoàn là cùng! Sau đó lên lập thành tích lại xóa hết. Đổi một cái cảnh cáo tiểu đoàn lấy mười ngày về với “em”, đằng nào hơn? Nhung dạo này thế nào?

         Sáng lại nói về Nhung. Cái thằng lạ thật. Suốt ngày liến thoắng. Cậu ta khen Nhung đẹp, nhưng lại chê cái tính khinh người của Nhung. Quang cười. Mặt anh tái đi vì những điều Sáng nói. Đổi một cái cảnh cáo lấy mười ngày về nhà! Có thể Sáng khôn đấy. Một điều quan trọng hơn Sáng không biết, trong tháng bảy này Nhung đang nghỉ hè ở nhà! Xa nhau hai năm rồi chưa gặp Nhung. Hay là về? Không!

         Nhưng đổi một cái cảnh cáo tiểu đoàn lấy mười ngày về nhà? Sáng khôn thật!

         Sáng vụt đứng dậy, vẫn nói rất to.

         – Thôi tao đi đây. Đồ nhát ạ.

         Quang vội vàng đứng dậy theo tiễn Sáng ra xe. Sáng vừa đi vừa càu nhàu:

         – Ngu! Lúc nào cũng phấn đấu! Ngu! Phải sống với tốc độ thật mạnh vào. Nào. Có về không? Hả?

         Quang lắc đầu một cách yếu ớt. Sáng gầm lên một tiếng rồi kéo thốc Quang lên ca bin. Quang chưa kịp phản ứng gì, chiếc xe ô tô đã lao vút đi hệt như tính nết cái anh chàng ba hoa này.

II

         Và thế là Quang đã về nhà. Ở đơn vị, tối hôm đó. Tiểu đoàn trưởng Doãn phải chỉ thị cho đại đội cử năm người ra phố tìm Quang. Khi được báo cáo lại Quang đã ăn chuối trong quán, sau đó lên một chiếc xe ô tô chạy về Hà Nội, Doãn mới ngớ  người ra. Anh đứng im một cách sững sờ, miệng lẩm bẩm:

         – Thật à? Thật à?

         Doãn báo cáo lên trung đoàn. Quân lực trung đoàn lập tức ra bưu điện đánh một bức điện như sau: “Quân nhân Quang đào ngũ. Đơn vị chuẩn bị hành quân. Đề nghị địa phương đưa đồng chí Quang trở lại gấp”.

         Chỉ trong một ngày bức điện đã về tới xã. Ba ngày sau, Quang mới về đến quê. Nó về trước Quang hai ngày.

         Lúc đó là hoàng hôn. Quang đi trên cánh đồng sát bờ sông Mã quê anh. Miền này người ta thường gọi là miền đất ngọt. Mỗi năm con sông Mã nước to, lúc rút đi, để lại tầng phù sa đầy ắp mặt đồng, mặt bãi. Những cấy chuối tiêu được vùi xuống đất này được mưa, tốt vù lên, lá to và dày đến có thể bẻ gãy rôm rốp. Làng xóm ở miền đất này bờ bãi vườn tược xanh ngắt. Con gái tắm nước sông này trắng da. Người nóng tính tắm nước sông này trở nên dịu dàng. Người già, mỗi một buổi chiều ra hóng mát ở bờ sông có thể khỏe trở lại. Chuyện ấy có thật không? Tất cả những cái đó Quang nghe mẹ kể từ cái ngày còn bé lắm. Nó xa xôi và mơ hồ như trong truyện thần thoại vậy.

          Quang dừng lại nghỉ dưới một gốc dừa sát bờ sông. Anh định bụng chờ tối mới về nhà. Kẻ có tội vẫn sợ như vậy. Anh không muốn nhìn thấy người làng lúc ban ngày.

         Bố mẹ Quang hãy còn trẻ. Ông bà chưa tới năm mươi. Mẹ Quang thương con nhưng hay lắm lời. Bố Quang ít nói hơn. Ông là bộ đội về hưu vì bệnh đau dạ dày nặng. Quang còn một đứa em. Nó lên bảy. Nó vừa đi học lớp một. Nó rất thích Quang về, mang súng như anh thằng Cung trong xóm.

         Nhưng Quang thú thực, anh không nhớ bố mẹ bằng nhớ người yêu. Không biết người khác có thế không thì anh không rõ. Quang và Nhung yêu nhau đã hai năm nay. Nhung đi đại học thì Quang nhập ngũ. Quang bị ám ảnh rất nặng nề một câu nhận xét mà Quang đã nghe đôi ba người nói: Con gái xứ Thanh rất ưa địa vị xã hội! Có đúng không? Quang hay tự thẩm vấn mình như vậy. Mỗi lần như thế bao giờ Quang cũng nghĩ đến Nhung. Anh không thừa nhận Nhung có cái tính ấy mặc dù Quang nghĩ chưa hẳn thế là xấu. Bây giờ Nhung làm gì nhỉ?

         Anh chợt nghĩ và nhìn về cái bến sông của làng Nhung. Ở đó có dăm ba cô gái đang tắm giặt. Có thể có Nhung trong đó cũng nên. Một thứ tình cảm tha thiết dâng lên trong lòng Quang. Anh nhìn cái tháp nhà thờ đã bị gẫy mất cái đỉnh nhọn hoắt. Cái nhà thờ ngày nhỏ Quang vẫn nghe những nhịp chuông gióng giả buông vào không gian những buổi chiều. Chập tối, Quang đi về nhà. Cái tiếng “đào ngũ” lúc này mới trỗi dậy day dứt anh. Trốn về nhà và đào ngũ chắc chắn là khác nhau chứ? Anh tự hỏi rồi dừng lại trước ngõ nhà. Anh sực nhớ cậu Sáng mắng anh phải hành động, tư duy ít thôi. Bỗng anh bật cười, bước vào ngõ. Trong nhà có khách, anh vội bước xuống bếp.

         Mẹ Quang đang nấu cám lợn. Anh bước vào làm bà giật mình. Thấy Quang, bà kêu lên:

         – Trời ơi! Sao hôm nay con mới về đến nhà?

         Quang chột dạ:

         – Sao mẹ biết con về?

         Bà mẹ không kịp trả lời, cuống quýt dẹp thúng gạo sang một bên. Bà vuốt má Quang nói rằng Quang gầy quá. Không kịp để cho Quang rửa ráy gì cả, bà vừa xuýt xoa, vừa dọn cơm trong bếp. Vì luống cuống bà đánh vỡ chai nước mắm. Thằng Giang nghe xoảng một tiếng vội vã chạy từ trên nhà xuống. Nó thấy Quang nhưng không gọi, cũng không ùa vào lòng Quang như hồi năm kia. Nó thừa biết anh nó đào ngũ rồi. Nó đã nghe bố chửi anh nó. Nó đã thấy ông xã đội râu quai nón đến nói vẻ đầy quan trọng. Bây giờ nó vẫn tưởng anh nó là một thằng phản động. Nó sợ! Nó chỉ đứng nhìn từ phía sau lưng Quang rồi chạy vù lên nhà.

          Quang đói quá ngồi xuống ăn cơm luôn. Mẹ Quang liên tục gắp thức ăn cho Quang. Miếng cơm không có canh nghẹn lại ở cổ. Bà nhoai người vuốt ngực cho con như cái ngày Quang còn bé tí bé tẹo.

         – Mẹ cha cái nghẹn, hay mẹ nấu cho bát canh nhé.

         Quang gạt tay mẹ ra và tiếp tục xới cơm vào bát. Có tiếng bước chân chầm chậm xuống bếp, hai người quay lại, đã thấy bố Quang đứng lừng lững ở cửa. Sau ông một bước là thằng Giang. Nó rụt rè nhìn anh và như sẵn sàng bỏ chạy. Nó vẫn cho là anh nó vấp phải một tội rất nghiêm trọng.

         Quang thôi ăn. Anh đặt bát xuống mâm lặng lẽ chịu cái nhìn của bố. Mẹ giằng lấy bát. Bà xúc thật nhanh một bát cơm đầy đặt xuống cạnh mâm, nói:

         – Con cứ ăn đi. Không việc gì mà sợ. Còn ông, ông nhìn nó cái gì mà nhìn ghê thế, ông đi lên  nhà đi.

         – Thật là đẹp mặt!

         Bố Quang nói sẵng một câu rồi đi ra khỏi bếp.

III

         Cái đêm đầu tiên ở nhà của Quang thật nặng nề. Anh thấp thỏm lo sợ. Anh sợ một cái gì sẽ xảy ra đến với mình. Có thể bố anh sẽ gọi anh ra nói chuyện, hoặc ông bực tức ném bàn ném ghế ra sân. Ông vốn tính hiền lành, nhưng rất cục. Bình thường trong nhà, mẹ Quang thường hay nói, lấn át ông. Nhưng khi ông nổi giận thì cả nhà ai cũng sợ. Ăn cơm xong, Quang lên nhà lớn có ý chờ cái giây phút ấy. Cái giây phút mà bố sẽ hỏi tội. Anh ngồi ở giường thỉnh thoảng lại nhìn trộm ông Quân đang ngồi một mình trước bàn.

         Mặt ông rất buồn. Da đen sạm hơn mọi khi. Ông không nói thêm một câu nào về Quang, cũng không nhìn Quang. Ông nhìn ra sân, ngẩn ngơ suy nghĩ. Có lẽ vì thế mà Quang sợ. May cho Quang, mẹ là chỗ ẩn núp cho anh lúc này. Chỉ cần Quang về đến nhà là bà mừng lắm. Nhất là sớm hôm sau bà mẹ dậy rất sớm. Những tiếng rậm rịch khác thường đầy ắp sự ấm áp. Tiếng bước chân mẹ, tiếng bát đĩa loảng xoảng, tiếng dao chặt cành cạch trên thớt. Sau đó là tiếng xèo xèo của mỡ sôi và mùi hành chiên thơm phức.

         Lúc Quang ăn cơm, mẹ đang quạt cho anh vội ghé sát vào tai thì thào một cách mừng rỡ:

         – Đêm qua tao tưởng bố mày sẽ làm um lên. Ông ấy hết bực rồi. Sáng nay ông ấy hỏi mẹ: Thằng Quang ngủ dậy chưa?

         Quang nhìn thẳng vào hai mắt mẹ, lòng anh chợt ấm lên như có ngọn lửa sưởi.

         Tại sao người ta đi xa, người ta nhớ bố mẹ hơn mà anh lại nhớ cô Nhung nhiều hơn bố mẹ và em. Anh có bất hiếu không? Dường như tất cả chuyến đi này của Quang là vì Nhung. Đó là một sự thật. Quang buồn bã thở dài.

         Đã gần đến nhà Nhung. Ngôi nhà nằm sát sân vận động của thị trấn. Ở đây ban đêm người ta thường chiếu phim hay diễn kịch. Trên cái bãi cỏ rộng ấy gió lùa qua, những tấm vé phim bay bay như những con bướm. Ngoài rìa sân vận động, hai cây phượng vĩ đã trổ hoa. Thứ hoa kết thành chùm, trông xa nó rực cháy như lửa, thôi thúc một nỗi nhớ nhung da diết. Ở đâu đó tiếng ve sầu kêu lên. Cái loài ve thật là: đồng thanh kêu rồi lại đồng thanh tắt đi khiến cho không gian im lặng đột ngột và ngỡ ngàng.

         Hình như hôm nay mình không được bình tĩnh lắm! Lòng Quang phảng phất một nỗi lo ngại. Anh thấy có chuyện không lành sẽ xảy ra hôm nay. Quang bước vào sân và chăm chú nhìn. Đó là phút căng thẳng mà anh cố trấn tĩnh.

         Nhung có ở nhà. Cô mặc bộ quần áo ngủ bằng vải hoa mỏng. Cô đang cầm kéo cắt một vật gì đấy kêu tanh tách. Tiếng động rất khẽ làm cô quay lại. Hai người nhận ra nhau. Cô đỏ bừng mặt, đứng dậy. Cả hai đều chưa nói gì. Nhung đi vào nhà, còn Quang thì ngồi xuống ghế.

         Thật là căng thẳng. Quang chợt nhớ lời nhận xét nào đó cứ ám ảnh miết. Con gái tỉnh Thanh chuộng địa vị xã hội. Có thật không? Lát sau Nhung đã trở ra, ăn mặc nghiêm trang hơn. Cô nhẹ nhàng ngồi xuống ghế.

         – Lâu nay Nhung có khỏe không?

         – Dạ khỏe.

         – Bố mẹ và các em?

         – Đi vắng.

         Bằng một linh cảm đặc biệt, Quang nhận ra một chút lặng lẽ trong con người Nhung. Hay Nhung đã biết mình bỏ đơn vị về? Quang đỏ bừng mặt.

         – Nhung nghỉ hè được bao lâu.

         – Một tháng.

         – Bao giờ đi?

         – Sắp!

         Những câu nói nhát gừng thiếu trôi chảy làm cho không khí chuyện trò mỗi lúc một xấu đi. Quang đứng dậy, ngột ngạt khó chịu. Sau đó, anh tìm một lối thoát: Hai người đi dạo phố.

         Để ra được phố chợ, họ phải đi qua cái sân vận động ban nãy. Lúc này sân vận động có một lũ trẻ con. Chắc là chúng vừa đá xong một hiệp bóng. Thấy Quang và Nhung đèo xe nhau đi qua, chúng nó thích thú nhìn. Chúng còn chỉ trỏ vào hai người, thì thầm với nhau. Trong đám có một đứa lớn nhất. Quang nhận ra, thằng này đang xúi giục lũ trẻ làm một trò gì đó. Anh nghe rõ tiếng nó:

         – Khi tao hai ba thì bắt đầu nhé. Thật to nghe không.

         Bọn trẻ con cười rúc rích. Quang và Nhung đi được một đoạn thì cái trò đùa ấy xảy ra. Đứa trẻ lớn nhất cúi thấp đầu xuống hô:

         – Hai ba.

         – Đào ngũ.

         – Hai ba.

         – Đào ngũ.

         Người Quang nóng bừng bừng. Quay lại cho lũ trẻ một trận hay đi tiếp? Và anh cứ đạp xe tiếp. Anh không dám quay lại nhìn Nhung. Cái bí mật xấu xa của anh đã bị mở toang cửa.

         Nhung vẫn lặng ngắt. Nhưng khi Quang đạp xe xa lũ trẻ, gặp một con đường tắt qua bãi về nhà, Nhung tự động nhảy khỏi xe. Quang vòng vội xe đạp lại. Nhung cố né anh. Cô chạy ra tới đầu con đường tắt, con đường không thể đi xe đạp được, bất chấp tiếng Quang gọi, đi thẳng.

IV

         Nhung đã biết tin Quang từ vài hôm trước. Tục ngữ nói: Điều lành không ra khỏi nhà, chuyện dữ bay xa muôn dặm! Cả xã ai cũng biết Quang đào ngũ. Mới nghe lần đầu Nhung không tin. Quang không phải là con người như vậy. Chắc người ta nhầm một tên Quang nào đó. Cả xã này thiếu gì Quang? Cho đến hôm mẹ Nhung khẳng định đúng Quang, Nhung phải lên xã đội hỏi cho thật chắc chắn. Anh Cam xã đội đưa tờ điện cho Nhung xem. Cầm tờ giấy trong tay, Nhung lạnh cả người.

         Đào ngũ! Quang mà như thế à, đêm hôm ấy Nhung đã khóc vì trăn trở mãi câu hỏi ấy. Chẳng lẽ mình lại đặt niềm tin vào Quang một cách nhầm lẫn? Mấy ngày liền Nhung đóng cửa không đi đâu. Cô vừa buồn, vừa hoang mang. Cho đến lúc Quang về, Nhung không khỏi sững sờ lúng túng.

         Nhung đến nhà một lúc thì Quang cũng về. Khó nhìn mặt nhau quá. Cô đứng dậy, Quang lại bàn. Nhung bỏ sang ngồi ở chiếc giường bên cạnh. Quang lại sang đó. Bực mình, Nhung thong thả đi ra vườn. Cô đứng dưới bóng râm của vườn mít. Cô biết Quang rất muốn thanh minh. Nhưng nói làm gì. Nói làm sao có thể bào chữa được việc mình làm.

         Cho anh đi “tàu suốt”! Nhung giận dữ nghĩ. Con trai gì mà lại sợ khổ, sợ chết? Ước gì ngay lúc này có một việc gì thật nguy hiểm Nhung sẽ lao vào cho Quang biết Nhung thoáng thấy nỗi cô đơn hiu hiu như một cơn gió nhẹ – ấy là dấu hiệu của khoảng cách giữa cô và Quang mỗi lúc một xa.

         Vô tình Nhung lại nhớ đến những chàng trai liên tục quấy rầy cô. Thảo này, Nguyên này, Tâm này, Thanh này… Cô chẳng thân thiết gì họ, nhưng đôi lúc họ cứ hiện lên rành rẽ trong đầu cô để cô so sánh:

         Thảo: kỹ sư giao thông. Cao và gầy. Mặt tròn. Sức khỏe yếu. Cái chất của một người đàn ông mẫu mực trong Thảo ít lắm. Anh ta hay khoe. Cũng hỏng!

         Nguyên: công nhân kỹ thuật ở Đức về. Bản chất thì tốt. Nhưng phải xem lại trình độ. Nhiều lúc Nhung nói chuyện, anh ta chẳng hiểu gì cả. Anh ta đến bao giờ cũng ào ào như một trận gió. Chiếc xe máy của anh ta nổ to quá làm bay cả những bụi lau trước nhà.

         Thanh…

         Nhưng Nhung chỉ yêu mỗi một mình Quang. Ở Quang có một cái gì đó hơn Nhung. Quang có cái để cho Nhung khâm phục. Tất cả những khuôn mặt: Thảo, Nguyên, Tâm hay Thanh đều không thể bằng Quang. Cái đó chưa hẳn là một trí thông minh, lại càng không phải chỉ là vẻ đẹp của một người con trai. Cái ấy, Nhung gọi đó là chiều cao của một con người.

         Nhung yêu Quang vào cuối năm họ học lớp mười. Chính Nhung là người kéo Quang vào cuộc. Cái anh chàng Quang này dạo đó còn ngơ ngác lắm. Bắt đầu là những cuộc đùa chơi. Họ gán ghép lung tung. Nhung rất ghét cái Thanh chẳng hiểu ý tứ gì lại ghép Quang với Phương. Phương nó nhiều tuổi hơn Quang mà hai người lại chẳng hợp nhau. “Quang chỉ hợp với Nhung thôi”! Cái câu này Quang viết trong một mẩu giấy ném cho Nhung. Thoạt đầu Nhung chẳng hiểu gì cả. Anh chỉ viết vắn tắt một dòng chữ QCHVNT và bắt cô dịch. Ai mà đoán cho ra được? Nhung bắt Quang dịch. Chờ cho vắng người, Quang ghé sát tai Nhung đọc lên cái dòng mật mã ấy, mặt Nhung đỏ bừng lên. Sau đó Nhung trấn tĩnh được ngay. Cô liếc Quang hỏi:

         – Quang yêu Nhung thật à?

         Quang đỏ mặt gật gật. Ngày đó cả hai còn sợ chữ “yêu” như sợ bỏng.

         Thế là hết!

         Mình sẽ đan xong chiếc mũ len dự định tặng Quang. Mĩnh sẽ kỷ niệm anh ấy một chiếc khăn mặt, một cuốn sổ tay, trong đó có ghi dòng nhật ký viết về Quang, và một cây bút.

         Thế là hết!

         Hôm Quang đi mình sẽ đưa Quang ra bến xe. Không nên nói cho Quang biết gì cả. Mình sẽ mua cho Quang mía và chuối ăn đi đường. Mình sẽ chờ cho Quang lên xe mới về. Nghĩ đến đó, Nhung như thấy mình mất Quang thật. Cứ thế nước mắt cô chảy từng dòng một. Cô đi vào nhà, và thật nhanh, cô ngã vào lòng Quang. Cô khóc hu hu như một đứa trẻ. Đó là lần đầu tiên hai người hôn nhau.

V

         Ông Quân về nghỉ hưu đã được sáu năm. Trước đây, ông là tham mưu trưởng một trung đoàn pháo mặt đất, do bệnh tật mà ông phải rời bỏ quân ngũ. Ông Quân vốn là cán bộ có năng lực, về được hai năm ông được bầu là bí thư chi bộ.

         Nói cho đúng ra hôm Quang về ông đã hết giận nó. Giả sử vừa nghe cậu Cam cũng họ hàng trong nhà ông làm xã đội trưởng cầm tờ điện của đơn vị đến, lúc ấy Quang mò về, có thể ông sẽ quật cho nó một trận. Cơn giận ấy tan rồi. Bây giờ ông chỉ thấy buồn. Cái buồn này thật giống cái buồn dăm năm trước khi ông được trao quyết định về hưu. Lúc ấy ông mới bốn chục tuổi, đơn vị chẳng hề ruồng bỏ ông. Ông về vì sức khỏe mỗi ngày một giảm sút. Đầu còn xanh, tuổi còn ít mà đã về nghỉ hưu. Mấy ngày đó, ông hoang mang chán nản như người ta đem ông đến một miền thật xa lạ, bắt ông một mình ở lại đó. Đêm nay cũng như vậy. Ông buồn. Một nỗi buồn mênh mông, mênh mông…

         Đêm đã khuya. Trăng ngoài sân sáng lặng lẽ. Ông Quân không muốn nằm nữa. Bao nhiêu hồi ức về cuộc đời cứ cuồn cuộn sống lại trong ông. Ông muốn ngồi một mình. Hình như nhà ông còn một chai rượu thì phải! Cách đây ít lâu, ông đón một thằng bạn cũ. Cái thằng ấy khá. Bây giờ đã là trung tá sư đoàn phó. Cái chai rượu ấy vẫn còn, vợ ông cất ở trong nhà. Ông Quân không cần đèn, ông mò mẫm đi vào nhà trong. Căn buồng tối đen. Ông cầm một cái chai nặng chịch nhấc lên.

         Ông uống một chén.

         Cái thằng Quang hỏng! Từ ngày đẻ nó ra, nhìn mặt mũi nó đẹp, ông mừng lắm. Những năm nó đi học ông ít về. Nhưng ông biết thằng Quang học rất giỏi. Mẹ nó viết thư bảo thế. Cô giáo gặp ông cũng bảo thế. Làng xóm họ cũng bảo thế. Mười năm học, mười năm tiên tiến. Ông mơ tưởng một tương lai đẹp đẽ về con. Ít ra nó cũng phải là kỹ sư chứ? Thế mà…!

         Cái thằng Quang hỏng!

         Ông lại uống một chén nữa. Rượu ướt đẫm cằm ông. Ở đời, cái thằng con trai có chí thì vứt vào chỗ nào nó cũng ngoi lên được. Ừ thì nó thích đi bộ đội. Ông bằng lòng cho đi. Hai năm đầu, ông nghe tin nó phấn đấu khá. Có một cán bộ về thẩm tra lý lịch nó. Anh bảo nó nằm trong nguồn đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật trong quân đội. Nay mai sau khi kết nạp Đảng sẽ cho nó thi vào đại học quân sự. Thế mà chiều nay nó lù lù về quê.

         Cái thằng Quang hỏng!

         Ông lại hớp một chén nữa. Những giọt rượu vương chảy dòng dòng trên cằm ông tỏa mùi thơm phức. Có khi con Nhung bỏ thằng này mất. Con bé thật đẹp người đẹp nết. Con gái phải như thế mới được! Nhưng nó thèm vào cái thằng đào ngũ! Con gái có sắc phải sánh với con trai có tài. Điều đó tất nhiên. Giá như thằng Quang đi học đại học quân sự, sau này cả hai đều là kỹ sư thì đẹp biết bao nhiêu. Ông vẫn tưởng tượng. Thế mà…!

         Cái thằng Quang hỏng!

         Ông lại uống một chén rượu nữa. Lần này có đến một phần chén rượu chảy ra ngoài. Ông Quân đã thấy say. Có hai ngọn đèn, một to một nhỏ. Ông châm đóm hút thuốc cứ châm vào ngọn đèn to nhất thành ra chiếc đóm cứ huơ huơ bên ngoài.

          Cái thằng Quang hỏng!

         Ông sẽ ăn nói ra sao với làng xóm. Nó không cho ông nhìn mặt bạn bè. Nước đang có loạn. Đất này tự trọng lắm. Họ nghèo nhưng rất khinh đứa hèn. Nó không cho ông được ăn nói đàng hoàng trong chi bộ. Ông lại là bí thư chi bộ. Quang ơi, con không thương bố…

         Ông lại uống thêm một chén rượu nữa.

         Sớm hôm sau vẫn như thường lệ, mẹ Quang dậy sớm hơn cả. Từ trong buồng đi ra, bà thấy trước tiên giường chồng không bỏ màn. Bà lẩm bẩm:

         – Quái, cái ông này ngủ gì mà không buông màn để cho muỗi ăn thịt thế này?

         Bà lại gần giường buông màn xuống cho ông. Bà chợt ngửi thấy sặc sụa mùi rượu. Bà giật mình sờ vào chán ông. Tay bà giãy lên vì mặt ông Quân nóng bỏng. Rồi bà giẫm phải cái gì ướt át dưới chân. Bà cúi nhìn: ông Quân nôn khắp nhà. Ông nôn ra cả máu.

         – Ơ Quang. Quang ơi…! Nhanh lên, bố mày… Trời ơi là trời…

         Quang vội chạy ra, mẹ Quang mặt đã đầy nước mắt. Quang lạnh toát cả người. Anh vội chấn tĩnh sang gọi hàng xóm. Lát sau người làng kéo đến đầy nhà. Ông Quân bị chảy máu dạ dày nặng. Người ta bảo vậy. Họ khiêng ông Quân ra cáng. Phải đưa ông đi cấp cứu ngay! Người ta khênh ông Quân đi. Bà Quân cũng vội vã nhét ít quần áo vào bị te tái chạy luôn theo cáng. Một số người trong xóm cũng đi, thằng Giang không rõ chạy đằng nào, còn lại một mình Quang. Một cơn gió lùa vào căn nhà. Căn nhà trở nên vắng ngắt.

VI

         Có tin từ bệnh viện về, bố Quang bệnh tình đã đỡ. Mẹ Quang vẫn ở dưới đó chăm sóc bố. Mấy hôm nay nhà Quang vắng ngắt. Thằng Giang bỏ đi đâu biệt tăm. Trưa nay, Quang đi tìm một vòng khắp xóm, không thấy. Anh gọi thật to, nó cũng không thưa. Anh nhìn vào nồi cơm thì thấy nồi cơm nấu vào buổi sáng đặt ở bếp có vơi đi khoảng một bát. Như vậy là thằng Giang có về để ăn cơm, nhưng nó về vào lúc nào thì Quang chịu. Tối, Quang đi ngủ nhưng vẫn để đèn, có ý chờ thằng Giang. Anh nằm trên giường và vẫn sốt ruột. Khoảng mười giờ chợt có tiếng kẹt cửa. Thằng Giang đen nhèm, mới hai, ba ngày mà đã đen như thui, nó chạy vào giường. Nó chui vào đống chăn quắp người lại mà ngủ.

         Hôm sau, còn rất sớm, anh Cam xã đội đã cắp cặp đến. Quang mời anh vào nhà. Anh Cam đi vòng ra sau bếp xem con lợn nhà Quang rồi mới bước vào. Vừa lúc đó, Quang chợt thấy bốn, năm đứa trẻ, có cả thằng Giang chạy vụt qua sân. Chúng nó chạy như bị ai đuổi. Chúng nó xúm lại quanh cái lỗ tường hổng bằng bàn tay nhìn vào nhà. Quang thấy mấy khuôn mặt liền một lúc. Mấy thằng bạn của Giang cam đoan rằng ông Cam xã đội đến để bắt anh Quang đi tù. Thế là cả lũ chạy theo ông Cam để xem ông xã đội sẽ làm gì anh Quang.

         Quang mời anh Cam uống nước. Anh Cam bê chén nước từ tay Quang hỏi một cách thân mật:

         – Định bao giờ mày đi, Quang?

         – Có lẽ một hai ngày nữa anh ạ!

         – Ừ cũng nên thế. Ở nhà lâu phiền lắm. Ông bố mày thì lại cả nghĩ.

         – Vâng!

         – Tao thì tao vẫn tin mày. Chắc nhớ nhà quá trốn về thôi chứ đâu phải bỏ về hẳn.

         – Vâng!

         Quang chợt nhớ đến tiểu đoàn trưởng Doãn, đại đội trưởng Hiệp. Chắc các anh ấy sẽ không bao giờ ngờ mình lại bỏ về. Quang thấy buồn vì mình về, không ngờ lại gây nên một sự đảo lộn lớn trong gia đình đến như vậy.

         Quang kể cho anh Cam nghe từ đầu câu chuyện bỏ về của mình. Anh Cam ngạc nhiên:

         – Chết sao lại nghe lời cái thằng Sáng. Nó vừa bị kỷ luật rất nặng thông báo về địa phương về tội buôn bán hàng trái phép đấy. Chắc chuyến vừa rồi nó rủ mày về để làm “áp tải”, làm “bình phong” khi gặp trạm kiểm soát đó. Cái thằng biết tính toán, biết lợi dụng tình bạn ghê gớm thật.

         Hai người đang nói chuyện thì những đứa trẻ lại kéo nhau chạy vù vù qua sân. Quang gọi giật giọng, thằng Giang cũng không đứng lại. Chúng nó phóng biệt tăm vào xóm.

         Chiều hôm ấy Quang xuống thăm Nhung. Cả nhà đều đi vắng, chỉ có đứa em út sáu tuổi của Nhung ở nhà. Mặt nó hãy còn vệt nước mắt. Chắc là cô bé vừa bị đòn xong. Quang nói chuyện với nó, nó quay mặt đi. Dỗ mãi nó mới phụng phịu được mấy câu:

         – Chị Nhung đi từ hôm qua rồi.

         Quang sững người lại trong giây lát.

         Theo kế hoạch vạch ra từ ở nhà, Quang sẽ xuống bệnh viện thăm bố. Trời không nóng lắm, nhưng áo Quang ướt đẫm mồ hôi. Chưa vào đến cửa bệnh viện, Quang đã thấy mẹ đang cong người bên cái thùng xi măng giặt quần áo. Bố Quang đang ngồi trên một cái ghế tựa, quay mặt ra phía cánh đồng. Vừa thấy Quang, mẹ đã bỏ chậu giặt chạy ra. Vẻ sốt sắng của bà xen lẫn những lo âu:

         – Mấy hôm nay con ở nhà có biết đường nấu cơm mà ăn không?

         – Dạ có mẹ ạ.

         – Thằng Giang có mặt ở nhà chứ?

         – Chẳng thấy nó ở nhà lúc nào. Nó về, nó lẻn xuống bếp xúc cơm ăn lúc nào con cũng không biết.

         – Chết mất!

         Mẹ Quang lắc đầu quầy quậy. Bà thừa biết bà vắng bà, sinh hoạt trong nhà sẽ trục trặc ngay. Quang bước lại gần chỗ bố. Anh chào ông, ông nhếch mép cười. Nụ cười mệt mỏi và yếu đuối.

         – Bố đỡ mệt chưa ạ?

         Ông Quân gật đầu.

         – Cũng vì con mà bố ốm.

         Ông Quân lặng thinh. Dường như ông xúc động. Ông khẽ cựa mình trên ghế.

         – Có lẽ ngày kia con đi bố ạ.

         Nói đến đó, Quang quay mặt đi giấu một giọt nước mắt nóng hổi trào ra má. Ông Quân thoáng nhìn đứa con trai hăm mốt tuổi. Trong cuộc nói chuyện này Quang đã làm lành được với bố. Ông Quân bảo hôm Quang đi, ông cũng sẽ xin bệnh viện cho ông được về, Quang ở lại chơi với bố đến chập tối anh mới chào bố về nhà.

         Hai hôm sau, ông Quân về thật. Khi ông về đến đầu ngõ, Quang sợ hãi chạy ra. Mặt ông còn xanh quá. Quang đi cạnh cho bố vịn tay vào vai mình. Anh không dám hé miệng vì anh biết tất cả mọi chuyện là do anh mà ra! Lúc ấy thằng Giang đứng trên hè. Nó rất ngạc nhiên và tò mò nhìn anh nó đi cho bố vịn. Nó vẫn tưởng bố phải chửi Quang mới đúng. Mẹ Quang chạy vào trong nhà. Bà mở toang các ô cửa ra. Bà lấy chổi quét nhà. Nó không đi chơi như mọi ngày nữa. Trong lúc mẹ Quang nấu cơm nếp để đùm cho Quang, có vài bà hàng xóm mang thư sang gửi Quang lên biên giới bỏ cho nhanh. Ai cũng tưởng trên đó, Quang có thể gặp được tất cả mọi người trong làng.

         Lúc tám giờ thì Quang đi. Anh xách túi lên vai. Anh chào bố trước, rồi chào mẹ. Anh chào mọi người xong thì xách cái túi nặng nào cơm, nào chuối, nào mía ra sân. Anh quên đứt thằng Giang. Nó đứng ở một góc cột cắn móng tay. Mặt nó tái ngắt. Thằng Giang chạy vụt ra ngõ. Nó lao vào lòng Quang như một con chim nhỏ sà vào lòng bàn tay người. Quang cúi xuống xoa đầu em. Nó khóc. Hai mắt Giang lăn rất nhanh những giọt nước mắt.

         – Anh đi nhé.

         – Ừ anh đi. Hôm sau anh sẽ mang quả lê từ biên giới về cho em.

         Thằng Giang gật đầu. Nó rời Quang ra để cho Quang đi. Chính lúc đó, anh cũng không cầm được nước mắt.

         Có một người không đưa tiễn Quang. Đó là Nhung. Cũng từ ấy, mãi mãi họ chẳng biết thêm một điều gì về nhau.

                                            Hà Nội, đầu mùa hè năm 1982

CHUYỆN QUÊ TA

I

         Sau đợt chiến đấu ấy. Khang được lệnh đi thẩm tra lý lịch, tiện thể anh về nghỉ phép luôn. Đã hai năm ròng Khang chưa về nhà. Anh vui quá, hai ba ngày chuẩn bị, lúc đi vẫn quên không mang theo khăn mặt, Khang ra bến xe buổi sớm. Ba lô, túi du lịch, lại cả một giò phong lan bạn bè tặng. Khang nào có thích chơi phong lan. Lên tàu, có một ông gì cứ trầm trồ khen, Khang biếu ông luôn.

         Anh đến nhà đêm qua.

         Đông quá! Nghe nói anh có đánh nhau vừa rồi, lại đi những Lào Cai, Lai Châu, làng xóm đổ đến thăm. Đông nhất là các bà các cụ. Họ hỏi những câu rất to tát: Liệu ta và phía bên kia còn đánh nhau nữa không? Người lính như Khang làm sao mà trả lời được? Không thấy một cô nào đến chơi trong hôm đầu tiên này, trẻ con thì nhiều vô kể, lắm đứa cứ thấy mặt Khang là chạy theo xin thuốc lá. Trong nhà, ngoài sân đông như đang họp chợ.

         Người mãn nguyện nhất là mẹ Khang. Cụ đã ngoài sáu mươi. Bà ngồi ở đầu thềm đón khách. Ai vào đến sân cùng mào đầu bằng câu nói vui vẻ thay lời chào:

         – Cả làng bây giờ vui nhất là bà cụ đấy nhá. Phen này thì bà cưới vợ cho anh Khang thôi chứ?

         – Vâng! cám ơn lòng bà. Nhất định đấy ạ.

         Mãi quá khuya nhà mới vãn khách. Mẹ Khang cùng đứa cháu dọn dẹp bàn ghế. Khang đi tìm chỗ mắc màn để ngủ. Đang loay hoay đóng một chiếc đinh thì mẹ đến. Lúc này mới là lúc mẹ con nói chuyện với nhau. Chờ Khang buộc dây màn xong, mẹ mới lựa lời hỏi:

         – Thế nào con? Đợt này để mẹ cưới vợ cho chứ?

         Khang cười rất mệt mỏi:

         – Mẹ bảo con lấy ai? Quen chưa quen, yêu chưa yêu.

         – Ôi dào! Khối con gái. Chúng đứng dong dóng cả đấy. Cái Loan, cái Minh này toàn những đứa có chữ cả. Mày gật đầu là xong.

         Khang cười to, có ý cười cái tính đơn giản của mẹ. Nhưng sau đó, Khang im ngay. Anh đang cần ngủ sớm. Đã ba ngày trên tàu. Khang thèm ngủ quá. Anh vội vàng hứa để mẹ yên tâm:

         – Mẹ yên trí. Lần này con về sẽ lấy vợ. Một người vợ thật đẹp này, thật hiền này, thật chăm chỉ này…

         Mẹ Khang rất hài lòng. Khang nói đùa mà bà lại tin là sự thật. Lâu nay dạy Khang, bà chưa thấy nó trái ý bà điều gì. Với dáng đi ung dung, mãn nguyện, bà lần lượt khép nốt cánh cửa cuối cùng rồi đi vào nhà trong.

II

         Mẹ Khang sinh được hai người con. Bước sang tuổi sáu mươi bà vẫn chưa cưới vợ được cho Khang, và chưa gả chồng được cho đứa con gái. Em Khang đang bận học đại học đã đành. Còn Khang không có lý do gì để trì hoãn việc đó. Bà đã có ý cưới vợ cho Khang từ năm anh mười tám, mười chín tuổi. Không ngờ Khang cứ đi biền biệt. Ngày ngày mẹ vẫn trông Khang về. Chiều chiều ngồi bên mâm cơm, cùng đứa cháu gái, bước chân nào qua ngõ bà cũng chú ý và hy vọng. Bà ngồi bên thềm nhà như vậy rất lâu. Lúc nào bà tin rằng, ngoài đường không còn ai đi nữa, bà mới vào giường đi ngủ. Ước mơ cưới vợ cho Khang ngày một chín dần, và lần này thành một quyết tâm lớn của bà. Sớm hôm sau, chờ Khang ăn sáng xong thì mẹ hỏi. Bà đã ngồi cạnh từ lâu, ăn mặc gọn gàng như sẵn sàng đi làm một việc gì vậy.

         – Thế nào con? Ý con thế nào?

         Khang đứng dậy vươn vai.

         – Dăm năm nữa mẹ ạ.

         – Chớ có đùa.

         – Dăm năm nữa mà lại.

         Mẹ vội nhìn Khang. Khang lại  nói.

         – Con nói thật đấy. Vài năm nữa là ít.

         Mẹ đã nhận rõ thái độ dứt khoát của Khang. Bà cảm thấy tự ái. Rồi bà khóc. Khang cuống quýt thanh minh với mẹ rằng anh còn đi bộ đội, anh còn chưa có nghề nghiệp gì, rồi anh chưa hề yêu ai. Mẹ gạt phắt những lý do đó của Khang. Buộc lòng Khang lại hứa với mẹ một lần nữa. Mẹ Khang không vui như lần Khang hứa đêm qua.

         Bà chỉ nói mát một câu:

         – Tùy anh. Nếu anh không lấy vợ, anh đi đằng anh, tôi đi đằng tôi.

         Ngay đêm hôm đó, mẹ Khang cho gọi tất cả các chú, các bác, cô, dì lại. Có người dỗ Khang nhè nhẹ. Có người dọa Khang không lấy vợ thì đuổi ra khỏi nhà. Khang phát hoảng hốt trước quyết tâm của gia đình. Chú Khang hiểu thanh niên hơn, ông vỗ vai Khang:

         – Chú thì hiểu cháu. Cháu muốn thư thả còn yêu đương, kén chọn, bay cành này nhảy cành nọ, nhưng chú hỏi: cháu có đành được như thế mà quên mẹ cháu không?

         – Cháu chẳng nhớ, chẳng quên gì cả.

         Khang bỏ vào giường nằm.

         Đầu Khang bùng lên những ý nghĩ dữ dội. Bắt anh yêu? Làm gì có thứ yêu bắt buộc! Bắt anh lấy vợ? Làm sao anh có thể cưới một cô gái như vậy được. Việc đó, thiên hạ đã làm nhiều, thậm chí còn rất nhiều, nhưng Khang thì không! Nhất định không thể lấy vợ trong năm nay. Một ý nghĩ chợt lóe lên: Hay trở lại đơn vị? Ý nghĩ ấy của Khang nhanh chóng thành một quyết định.

         Con gà trong chuồng trở mình gáy, Khang đã chuẩn bị xong ba lô, quần áo, chỉ cần khoác nó lên vai, bước ra cửa là xong. Khang còn lưỡng lự, muốn dặn lại đứa cháu gái đôi điều. Anh rón rén đến bên giường. Quyết tâm mãi, Khang mới cúi xuống khẽ gọi đứa cháu:

         – Châu… Châu… dậy chú bảo.

         Đứa bé mười hai tuổi. Nó nhổm dậy, ngơ ngác chốc lát. Khang ngó quanh, rồi nói rất khẽ:

         – Cháu ở lại, sáng bà dậy, cháu bảo chú đi rồi nhé. Có điện của đơn vị. Chú đi dăm bữa nửa tháng chú lại về.

         – Chú ơi… đừng đi, chú ạ. Sáng sớm, bà không thấy chú, bà khóc đấy.

         Hai chú cháu Khang đang nói chuyện chợt có làn gió lạnh thổi vào. Khang quay ra, mẹ đã đứng trong nhà. Bà nhìn mọi thứ lỏng chỏng trên giường và đã hiểu. Mặt bà tái đi, bà không khóc như mọi lần nữa.

         – Châu.

         – Dạ.

         Con bé giật bắn người, dạ khẽ rồi òa khóc. Bà sai nó:

         – Cháu sang gọi bố mày về đây cho bà. Bảo cả mẹ mày nữa. Xong cháu dẫn cả thằng em cháu sang. Mau lên.

         – Bà ơi…

         – Đi đi cháu.

         Cái Châu khóc hu hu. Khang lạnh cả người. Có một cái gì không bình thường. Mẹ Khang lại giục cháu đi một lần nữa. Đi gọi các chú, các bác lại ngay giữa đêm còn chưa sáng này. Bà lại nói thêm:

         – Cứ để cho chú mày đi, bà cũng đi. Bà chả ở đây làm gì.

         – Mẹ ơi…

         – Còn con, con đi được thì cứ đi. Mẹ ở lại làm gì mặc mẹ. Tao đã ngoài sáu mươi tuổi rồi, sống chết với tao có sá gì. Em mày về không có tao, nó ở với chú nó.

         Khang không kìm nổi nước mắt. Lần này anh khóc, đã van lạy mẹ, bà mới nguôi cơn giận. Còn anh, mãi sau này, anh cũng không rõ vì sao mẹ anh lại cần anh lấy vợ như vậy. Anh chỉ có thể hiểu rằng mẹ cần một cô con dâu bên cạnh. Đó là ước mơ của mẹ, là hạnh phúc lớn nhất của người già. Khang có bổn phận phải chiều theo suy nghĩ ấy.

         Câu chuyện bắt đầu từ ngày hôm đó.

III

         Vị cố vấn đầu tiên cho Khang là thằng Mai, con đầu ông chú. Bằng tuổi Khang nhưng Mai tinh khôn và ranh mãnh. Nó giới thiệu cho Khang một cô gái có tên rất kêu, rất lạ Thanh Thanh: Mai quả quyết rằng Thanh Thanh đẹp nhất vùng. Không những thế, cô ta còn trong ban chấp hành chi đoàn. Từ nhỏ, Thanh Thanh chưa bị nghe mẹ cô mắng bao giờ. Gần đến nhà Thanh Thanh, Mai dừng xe lại. Cậu ta sửa nắn lại cổ áo cho Khang và dặn đi dặn lại mấy điểm cơ bản. Một: có thấy điếu trong nhà cũng không được hút thuốc lào. Hai phải siêng cười lên một tí. Ba nếu đã nhất trí, hãy gãi tai ra hiệu cho Mai biết để Mai đi ra ngoài.

         Thật là một anh chàng phố huyện! Khang cười và mến lòng nhiệt tình của cậu em khôn ngoan này.

         Họ đi vào hành lang. Một cái ngõ nhỏ và sâu. Con đường có những phiến đá nhỏ chìm dưới mặt đất. Càng đi vào, Khang càng ngờ ngợ. Khi Mai dừng lại trước ngõ, dặn kỹ ba điểm ban nãy, Khang mới giật mình. Nhà này có ai là Thanh Thanh? Chỉ có một cô gái duy nhất là cô Bầu mà thôi. Khang chưa kịp hỏi thì Mai đã vào đến sân. Cu cậu xông xáo lắm.

         – Chị Thanh có nhà không?

         Im lặng.

         – Chị Thanh ơi!

         Im lặng. Tim Khang đập dồn. Không hiểu vì sao anh sợ. Nếu là cô Bầu, Khang đã biết từ lâu. Nhà này, từ ngày xa xưa hồi bố Khang còn sống, ông có đi lại nhiều. Hai người bố của hai gia đình cũng hứa là gả con cho nhau, chính là cô Bầu chứ không phải là cô khác. Khang đã xuống đây một lần. Hôm đấy tí chết. Vì cô Bầu là con bé ngoa ngoắt nhất, Khang đã bắt rắn cho ăn thuốc lào, bỏ vào cặp sách của nó. Bầu báo cáo nhà trường, Khang bị đuổi học một tuần. Chính cái bếp này ngày Khang xuống, Bầu kéo con chó đẻ ra cho nó cắn Khang. Khang cứ lùi mãi, lùi mãi đến bờ ao không biết, rơi tõm xuống nước. Bầu đứng trên bờ vỗ tay cười ngặt nghẽo. Còn Mai thì vẫn cứ gào tướng lên: “Chị Thanh ơi… Chị Thanh…”.

         Có tiếng bước chân chạy nằng nặng và tiếng cười rú lên. Cô gái ấy đứng lại giữa sân, bẽn lẽn:

         – Chào các anh.

         – Ghớm chị đi đâu mà tôi gọi mãi.

         – Có tí việc phải sang nhà bên.

         Một tí nữa thì Khang chào “Bầu”. Anh lúng túng đến thiếu cả minh mẫn. Bây giờ cô ấy đã là Thanh Thanh. Thời gian chứa đựng biết bao nhiêu là biến đổi. Thanh cặm cụi đun nước. Mai – vì gọi Thanh là chị nên tự nhiên hơn. Cậu ta giúp Thanh một tay. Mai mộc mạc, thật thà.

         – Chị thấy thế nào?

         – Sao lại hỏi thế?

         – Anh ấy muốn làm quen với chị.

         – Vớ vẩn.

         – Thật.

         – Cũng không được mà lại.

         Sau ít phút đầu tiên bỡ ngỡ, họ tự nhiên dần. Câu chuyện được kết thúc nhanh chóng. Thanh Thanh đã có đám rồi. Người yêu cô cũng là một anh bộ đội.

         Cả nhà Khang lại xoay vào bàn bạc, tìm nơi tìm chốn. Cô này Khang chưa hề biết. Cô tên là Bưởi, đội trưởng hợp tác xã. Khang thầm nghĩ, chắc là cô gái hôm anh về trông thấy. Cô xắn quần, cầm đòn gánh đang cào phân cho hợp tác xã.

         Bưởi – không phải là cô mà Khang đã đoán. Bưởi to khỏe, cái vững chắc của cô gái xã viên hợp tác xã.

         Khang thấy cô cũng được. Còn Bưởi, cũng mến Khang qua đôi lần tiếp xúc. Khang chỉ hơi nản vì Bưởi đang ôn thi đại học, Khang cần một người vợ giúp mẹ, ở lại địa phương đảm nhiệm việc lo toan cho gia đình. Có thể cô học đại học, nhưng học ra, cô công tác ở nơi nào đó thật xa thì sao? Con chim ấy sắp vỗ cánh bay, làm sao níu giữ được?

         Anh không nỡ thuyết phục cô ta thôi ôn thi vào đại học để xây dựng một tình yêu ích kỷ cho mình.

         Biết không thành, Khang muốn quên chuyện đó đi. Anh trở lại trạng thái cũ: đợt này sẽ không lấy được vợ. Chiều nay anh mang thư, quà đến nhà một anh bạn cùng đơn vị.

IV

         Đã lâu hôm nay Khang mới có dịp đạp xe ung dung qua cánh đồng. Gió lẫn mùi cỏ lá thổi tràn trề trên nền xanh ngăn ngắt của lúa xuân. Những bờ cỏ non tốt vù lên, rất nhanh. Mát mẻ quá. Khang chợt nghĩ: Nếu người ta không có đồng cỏ, không có chân trời hay những đám mây, người ta sẽ sống nhọc nhằn thêm biết bao nhiêu?

         Dũng, nhà bạn Khang sắp đến là một kế toán pháo binh loại cừ ở trung đoàn anh. Hai người không thân nhau, Khang khác tính Dũng. Dũng việc gì cũng ào ào rất nhanh còn Khang thì chắc chắn, quyết liệt. Họ có cãi nhau, sau lại dàn hòa.

         Có một cô gái trẻ nghiêng người bên giếng nước. Cô đang kéo dây gầu, mái tóc bay lả tả. Bộ ngực đang tuổi thanh xuân phồng lên, da dẻ hồng hào, tươi tắn. Cô nhận ra Khang trước và trố mắt lên nhìn.

         – A… bố ơi… bạn anh Dũng. Bố ơi!

         – Sao cô biết? Khang hỏi.

         – Vì anh là bộ đội. Mà bộ đội vào đây nhất định là bạn của anh em. Bố ơi… có khách.

         Sau tiếng kêu, bố mẹ Dũng đều chạy ra. Hai đứa em Dũng đang giằng nhau tấm mía cũng kéo cửa nhìn. Bố Dũng đưa Khang vào nhà. Từ đó, Khang như hòa vào niềm vui của gia đình bạn. Bố Dũng vội đeo kính viết giấy xin phép cơ quan nghỉ một buổi. Mẹ Dũng lau bàn, nhìn Khang hơi kỹ, hỏi:

         – Sao anh không rủ em nó cùng về luôn thể. Gia đình mong em mãi.

         – Bác ạ, việc bộ đội bận lắm. Bác thông cảm. Chúng cháu là đi công tác đấy.

         Khang cho trẻ em kẹo. Một đứa được ăn nhảy vào lòng Khang; một đứa cứ đứng từ xa nhìn Khang không chớp mắt – Thu – cô gái nọ, chạy ào vào, vừa lau đôi tay ướt, vừa ngó vào lá thư. Cô nhặt lên xem. Đọc thư một đoạn, cô mới ngước nhìn khách hỏi một câu dại dột:

         – Thế anh tên là gì ạ?

         – Khang.

         – Thế mà anh em viết là Kháng. Đúng chữ nghĩa anh Dũng. Ba nét viết có hai.

         Bố mẹ Dũng đều phì cười trước tính còn quá trẻ con của Thu. Một lần nữa. Thu bỏ thư nũng nịu:

         – Thế là con chẳng có quà.

         Trong buổi chiều này, cả nhà đều rất vui vẻ. Nhưng có lẽ vui hơn cả là Thu. Thu chơi rất thân với anh trai. Mặc dù cô kể Dũng khá lười. Đi ngủ không bao giờ rửa chân, có việc lại hay giả vờ đau bụng. Hôm nào có tội, sợ Thu mách mẹ anh ta cứ đứng từ xa dơ nắm tay đe dọa. Thu thích anh trai vì anh cô rất thông minh. Chẳng hiểu từ đâu, Thu lại nghĩ rằng những người đàn ông thông minh bao giờ cũng lười biếng. Cô có cảm tưởng như họ có đặc quyền của họ. Nghe Khang kể anh cô rất dũng cảm, làm những bào toán tính tầm bắn rất nhanh và chính xác. Thu tự hào lắm.

         Năm nay Thu mới mười chín tuổi. Cô đang học trường cao đẳng sư phạm. Khang nghĩ đời Thu đẹp lắm. Người yêu của Thu sẽ là một kỹ sư nào đó thật trẻ, thật đẹp. Thu tiễn Khang ra ngõ. Cô hứa rằng, dầu có mưa to gió lớn, ngày mai cô cũng vẫn lên nhà Khang chơi.

V

         Thu đến sớm thật. Cô đứng lại ở ngõ gọi:

         – Anh Khang ơi… Anh Khang.

         – Có đây.

         – Ôi! Đúng tiếng anh rồi.

         Thu vui vẻ reo lên. Cô dừng lại ở ngõ. Mặt đỏ ửng, cô vừa quạt vừa kể bô bô:

         – Một tý nữa thì em nhầm. Làng anh có những ba Khang, chán thật. Em vào một nhà cuối làng, một ông độ trung niên bước ra bảo tôi là Khang đây, em sợ quá dắt xe ra ngay.

         – Còn một Khang nữa cơ.

         – Thì bảo một tý nữa mà lại. Em dắt xe vào ngõ ấy rồi.

         Họ cùng cười rất vui. Vào sân, Thu thấy một bể chứa nước rất to. Cô cúi đầu xuống xem. Cô sững sờ hơn cả là nhà Khang nhiều dừa quá. Thu đếm ngót năm chục cây. Thế này mà người ta bảo thiếu dừa để làm xà phòng. Thu bảo vậy, rồi cô bước ra phía chiếc ao to, nước màu xanh. Đẹp nhất vẫn là mảng vườn hở ra nhìn rõ dòng sông và những cánh buồn căng phồng đang nhẫn nại kéo những con thuyền to, ngược sông.

         – Em chẳng thích hò sông Mã đâu anh Khang ạ. Nó cứ cụt lun lủn. Ơ hò… chán lắm.

         Quay lại, không thấy Khang, Thu cười rúc rích một mình. Khi cô bước vào nhà, đã có những hai ba người lớn, cô ngại quá, im bặt từ đó.

         Ấy là ông chú Khang và mẹ anh.

         – Uống chén nước chè tươi, cháu.

         – Dạ.

         – Tên bố cháu là gì nhỉ?

         – Là Tâm ạ.

         – Mẹ cháu?

         – Là Nhung ạ.

         – À, bác biết. Đều là chỗ quen thân cả. Thế bố cháu còn ở phòng Giáo dục không?

         – Dạ còn ạ.

         Lúc sau, chú Khang kéo mẹ Khang vào nhà. Thu bắt đầu lại cười, lại nói vui vẻ.

VI

         Kéo tay Khang xuống nhà, ông chú thì thào:

         – Cháu thấy con Thu thế nào?

         Khang xua tay:

         – Chớ, chú ơi! Cô ấy trẻ quá. Cháu coi như em gái ấy. Tuổi còn ít lo toan việc nhà sao được?

         – Hỏng! Cháu nói thế là chưa hiểu phụ nữ. Hoàn cảnh bắt buộc họ chứ đâu phải họ lo cho hoàn cảnh. Đã là gái có chồng, cô nào cũng biết hết.

         Khang cho đó là chuyện đùa, anh không lưu tâm. Khang không ngờ chú Khang, dựa chỗ quen biết, ông quyết định xuống nhà Thu. Được nó là vợ Khang. Không được thì là chỗ quen, sá gì?

         Và ông xuống thật.

         Tuổi già dễ thông cảm nhau. Chú Khang cùng bố Thu, mẹ Thu ngồi uống nước. Họ cứ nhắc lại những kỷ niệm đã vùi sâu dưới đáy thời gian từ ngày chú Khang và bố Thu đi du kích. Áng chừng câu chuyện đã thân mật, chú Khang đặt thẳng vấn đề. Bố Thu hết sức ngạc nhiên. Ông nhìn bà, bà nhìn ông lưỡng lự:

         – Cái đó cũng khó, bác ạ.

         Mẹ Thu giỏi việc này hơn, vội nói qua vai chồng:

         – Kể được với anh Khang thì tốt quá, bác ạ. Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng. Có điều cháu nó còn ít tuổi quá.

         Chú Khang nói nhanh:

         – Cháu nó cũng mười chín đôi mươi cả rồi. Hơn nữa ngày nay, bọn trẻ nó khôn hơn ta thời trước. Vả lại, với hoàn cảnh nhà cháu Khang cũng chẳng có gì đáng lo lắm.

         Mẹ Thu vội nói lánh xa:

         – Việc này ta có bàn cũng chả được bác ạ. Chủ yếu là các cháu.

         Vốn là người từng trải, chú Khang dừng lại ở đây. Công việc phải như vỡ miếng đất ấy. Cuốc vỡ ra đó rồi mới vơ cỏ làm đất, rồi mới gieo được, việc cần làm ngay là gặp Thu.

         Thu đang thực tập dạy học ở trường cấp hai không xa lắm. Chú Khang đến hôm Thu mới dạy xong hai tiết vật lý lớp 7. Cô giáo trẻ đói quá về nhà lục xoong mì nấu cà chua. Và cứ thế một tay ôm tập giáo án, một tay múc mì ăn ngon lành, chú Khang cũng vô tình, ông khẽ đẩy cửa, Thu “a” lên một tiếng. Không kịp chạy trốn, cô lấy giáo án che mặt cười sặc sụa.

         – Ối trời ơi… Cháu xin lỗi bác. Xấu quá đi mất.

         – Không sao! Như thế càng tự nhiên, cháu ạ.

         – Mời bác ngồi chơi ạ. Để cháu dọn qua một tý.

         Một giờ sau chú Khang đã vào đề câu chuyện. Thu giật mình.

         – Bác nói ai ạ? Cháu à?

         – Ừ. Cháu.

         – Ấy… đừng bác ạ. Đừng… ai lại thế.

         Thu kịp trông thấy cô bạn, cô gọi gấp:

         – Thanh ơi… Thanh… vào đây.

         Bạn Thu vừa ngồi xuống ghế, cô vội cầm ca lấy cớ xin nước bỏ trốn đi nơi khác. Thu không trở lại nữa.

         Chú Khang chờ mãi, không thấy Thu quay lại, đành ra về. Ông băn khoăn, nhưng rồi ông tự giải thích cho mình. Con gái vừa lớn như thế mới phải. Cũng phải có cái danh giá chứ. Chú Khang yên tâm và dự định ngày mai sẽ xuống tiếp.

         Đối với Thu, việc đó gây một chấn động rất lớn trong tâm hồn. Cô phản ứng rất mãnh liệt. Lần thứ hai, chú Khang lại xuống. Ông ngồi đợi Thu mãi, Thu biết nhưng quyết không ra. Tuy thế, ngồi soạn bài ngày mai giảng, lòng cô nóng như lửa đốt. Chốc lát, cô lại nhìn qua khe cửa. Chú Khang vẫn im lìm chờ đợi Thu. Mãi chiều, ông mới dắt xe tần ngần ra ngõ, Thu nhìn ông qua lỗ thủng của cánh cửa, nước mắt ứa ra ròng ròng.

         Đêm ấy Thu không ngủ. Cô suy nghĩ và khóc. Cô trách chú Khang sao lại kéo cô vào chuyện này, ông đã làm khổ cô. Lần đầu tiên Thu đã nghĩ đến Khang, như một chàng trai. Thu cũng thấy Khang khỏe khoắn, đẹp trai. Anh ấy không vui tính như ngày đầu đến nhà mẹ Thu nhận xét. Rồi bất thần một tiếng nói phản đối lại vang lên rất mạnh trong lòng Thu. Nhất định là không. Nhưng rồi, càng kiên quyết bao nhiêu, Thu càng mềm yếu đi. Cô bỗng thấy thương Khang đến kỳ lạ.

         Hôm sau, Thu hỏi một chị giáo viên có tuổi trong trường:

         – Này em hỏi chị nhé. Con bạn em có một anh bộ đội đến hỏi, chị nghĩ thế nào?

         – Nhưng anh ta ra sao?

         Thu lúng túng.

         – Trung bình chị ạ.

         Cô giáo phá lên cười. Rồi chị nói nghiêm túc:

         – Chủ yếu vẫn là con  người anh ta. Nhưng… chị cũng rất thương bộ đội.

         Mới hai ngày, Thu đã gầy đến mảnh người đi. Cô vừa định gạt chuyện đó ra, không nghĩ đến nữa, chú Khang lại tới. Như mọi lần, Thu lại trốn đi nơi khác. Cho đến khi chú Khang chờ mãi không thấy, ông ra về, Thu không thể kìm lòng được nữa. Cô vừa chạy ra vừa khóc:

         – Bác ơi!

VII

         Lúc mới được thông báo, Khang nghe chưa tin. Nghe chú thuật lại tỷ mỷ, Khang sững sờ cả người. Thế ra Thu đã nhận lời đến với anh. Một cô giáo trẻ và xinh đẹp ấy sẽ là vợ của Khang. Một hạnh phúc quá lớn đối với anh, như một sự may mắn vậy.

         Rồi họ tổ chức cưới. Mọi việc xảy ra gọn gàng trong hai chục ngày công tác của Khang. Công việc trở lại nếp bình thường của nó. Sớm sớm Thu đạp xe đến trường, chiều cô lại về, quét dọn, nấu cơm, tắm giặt ở nhà.

         Mãi sau, Khang mới hiểu hết ý nghĩa của cặp vợ chồng anh. Thì ra, người ta vẫn có thể sống với nhau thật hạnh phúc bằng tình cảm như của người anh đối với người em, bằng tình bạn, bằng một sự thông cảm sâu sắc, bằng một cái gì lớn hơn cả tình yêu.

         Khang càng thương Thu. Anh viết thư cho cô rất đều. Anh vẫn ở tiểu đoàn pháo biên giới. Cuộc sống của họ nhập vào cái bình thường của hàng nghìn, hàng vạn đôi vợ chồng bộ đội khác.

 

 

 

NGƯỜI ĐI CUỐI CÙNG

I

         Trời sắp đổ mưa. Những cơn gió thốc mạnh từng đợt làm náo động cả khu vực trung đoàn ô tô đóng quân. Bộ đội ở đây đang chuẩn bị ra ngoài trời để tập khoa mục: “Nấu cơm lúc đang mưa to”. Một mình đại đội trưởng Quảng đứng ở giữa sân. Chỉ cần có một hạt mưa, anh sẽ thổi còi tập trung bộ đội. Giữa lúc đó có một chiến sĩ thông tin, áng chừng ở trung đoàn bộ về, vừa đi vừa chạy cơn mưa, gọi Quảng rối rít. Anh ta trao cho Quảng một lá thư.

         – Chắc là thư của chị ấy phải không anh?

         – Không.

         Quảng nói, trong lúc còn chăm chú nhìn những đám mây tản mát bị gió cuốn về một chỗ. Khi Quảng nhìn xuống ngạc nhiên nhận ra thư của Thanh. Cách đó mới vài ngày Quảng vừa có thư của cô. Hay có việc gì xảy ra? Quảng hơi chột dạ. Anh xé vội lá thư. Đó là mảnh giấy xuất nhập vật liệu ô tô. Dòng chữ Thanh viết trên đó cũng vội vã, cẩu thả khác những lá thư trước đây cô viết nắn nót, đều đặn và đẹp. Chắc chắn Thanh viết lá thư này trong một trường hợp bất đắc dĩ và cấp bách, kê giấy lên đùi để viết lá thư độ ba chục chữ. Thanh báo rằng: cô vừa gặp giám đốc xí nghiệp. Qua câu chuyện với ông, Thanh biết: xí nghiệp đang cần một kỹ sư có tay nghề vững lại là đảng viên, để làm đội trưởng một đội xe vận tải. Chỗ Thanh còn nhiều kỹ sư trẻ, nhưng lại chưa ai là đảng viên. Thanh gợi ý xem Quảng có muốn ra khỏi quân đội không.

         Quảng đọc xong thư rồi cười ầm lên.

         – Rõ chuyện vớ vẩn.

         Quảng xé lá thư, chưa kịp ném, gió đã cướp trên tay anh những mảnh giấy nhỏ rồi mang ra vùng đồi trọc xa xa. Quảng thấy đây chỉ là ý nghĩ bồng bột của Thanh. Ai mà không có giây phút thiếu chín chắn? Mặc dù lòng anh gợn lên một ý nghĩ nhỏ: Thì ra lâu nay Quảng nhầm. Thanh không muốn cho Quảng ở trong quân đội từ ngày nào, anh không hề biết.

         Quảng quên ngay chuyện ấy. Ở đây Quảng bận rộn suốt ngày. Nhất là những ngày cuối năm này. Tình hình biên giới căng thẳng đến mức các cuộc họp cán bộ chỉ huy đã phải bàn đến công việc nghiêm túc nhất. Sắp phải hành quân chiến đấu, hết đợt học chính trị này đến đợt học quân sự khác. Yêu cầu đặt ra là: cả sư đoàn ô tô cơ động phải nhanh, mạnh kịp thời đưa quân, đưa vũ khí vào các mặt trận. Hai ngày nay họ chờ mưa để tập bài: nấu cơm ngoài trời. Điều kiện đúng như ở mặt trận: Trời đổ mưa, đất ướt phải nấu cơm ăn. Mỗi tiểu đội một bếp. Không được khói vì sẽ có máy bay địch. Cơm phải chín, không được khê hoặc nát. Ban chỉ đạo học tập gồm các trung đội trưởng và Quảng.

         Gió lặng dần. Khoảng hai ba phút sau gió ngừng hẳn lại thì giọt mưa đầu tiên ném xuống đất. Mưa thi nhau ném ào ào xuống mái nhà, bãi ô tô, mặt đất. Quảng vội vã thổi còi.

         – Cho bộ đội ra đi. Ra đi!

         Các mái hiên chen chúc bộ đội. Họ đều mặc áo mưa và đội mũ. Trực ban gào toáng lên nhưng bộ đội vẫn cứ co lại dưới các mái hiên. Quảng bực dọc đi từng bước dài ra giữa sân hét.

         – Đại đội… thành chín hàng dọc, tập hợp.

         Đến lúc đó, các chiến sĩ lái xe mới ào ào chạy ra. Mảnh sân rộng nhốn nháo người. Một chốc, bộ đội đã đứng vào hàng nghiêm chỉnh. Quảng đọc mệnh lệnh xong, họ giải tán ngay. Chín bếp nấu ăn của chín tiểu đội được kéo một dãy dài ra tận đầu đường. Họ chặt những đoạn cây dài hơn gang tay đóng xuống đất làm bếp. Những chiếc lều căng bằng tăng được dựng lên rất nhanh. Mỗi bếp đều có khoảng trời nho nhỏ không mưa để đặt bếp.

         Quảng đứng dậy nhìn khắp một lượt.

         – Bếp số hai có khói. Bếp số hai chú ý.

         – Quạt đi các cậu. Đại đội trưởng nhắc đấy.

         – Củi tươi bỏ mẹ. Khói mù cả mắt…

         Một chiến sĩ vừa văng tục vừa kêu ca. Quảng đặt tay lên vai cậu ta rồi cũng ngồi xuống nhặt những mớ rau muống đã đỏ cọng.

         – Đi đánh giặc sao không khổ được? Cố gắng lên. Chẳng ai muốn đem nhau ra giữa trời mưa mà nấu nướng cả. Chúng mình phải tập để nay mai nếu có lên biên giới cho nó quen dần đi.

         – Chiều nay chúng mình chắc sẽ nấu được cơm ăn.

         Anh chiến sĩ vuốt nước mưa trên mặt cười.

         – Đành là thế thủ trưởng ạ. Nhưng sung sướng lúc nào hay lúc đấy.

         – Như cậu nếu có đi chiến đấu mà mưa to chắc hẳn sẽ ngủ trong ca bin xe một giấc và nhịn đói chắc.

         – Có thể lắm.

         Anh chiến sĩ mỉm cười. Quảng đứng dậy! Mưa mỗi lúc một mạnh.

II

         Hai ngày sau, lá thư mới của Thanh lại đến. Vẫn chiến sĩ thông tin đưa cho Quảng và lại vui vẻ nói đùa một câu. Quảng đang vùi đầu vào công việc, lá thư đến không đúng lúc làm anh hơi bực. Anh cất vào ngăn kéo rồi tiếp tục xoay trần bên tấm bản đồ địa hình vùng Z. Quảng cầm bút lên tay nhưng vẫn bấn một nỗi băn khoăn. Phải uống một tách trà thật nóng Quảng mới lấy được không khí làm việc. Anh lại giở tấm bản đồ tác chiến ra bàn.

         Miền Z là một phần phía đông mặt trận theo sự phân chia của phòng tham mưu sư đoàn. Đó là vùng mà trung đoàn ô tô N chịu trách nhiệm phục vụ. Họ sẽ trở quân vào mặt trận, hay kéo pháo, chuyển đạn lên các điểm cao. Vùng Z có sáu con đường cả thảy. Một đường quốc lộ và năm đường chiến lược. Tổng cộng là năm nghìn cây số. Có ba huyện gồm hàng trăm làng bản. Họ phải vượt qua một con sông và mười chín đoạn ngầm… Quảng ghi chép cụ thể đặc điểm vùng Z vào sổ tay. Anh nghiên cứu và tìm phương án vận chuyển tối ưu để trình bày trong cuộc họp quân chính sư đoàn ngày mai.

         Năm nay Quảng tròn ba mươi tuổi. Anh là một đại đội trưởng không trẻ, nhưng có năng lực. Cả sư đoàn ô tô này có năm đại đội trưởng có trình độ đại học. Quảng tuy hay nóng nảy, nhưng được sư đoàn trưởng quý mếm hơn cả vì anh rất tháo vát, có lối làm việc khoa học, tự tin.

         Sau hơn hai tiếng cắm đầu trên bản đồ, Quảng rút ra hai nhận xét: một là phải đặt tại các trọng điểm những sĩ quan đốc chiến. Những sĩ quan đốc chiến này sẽ ở hẳn tại các vùng có pháo địch, đèo cao hay ngầm sâu để nắm tình hình. Có như thế chỉ huy hành quân mới ít gây thương vong, tắc đường hay cháy xe được. Sĩ quan đốc chiến này có toàn quyền chỉ huy mọi cuộc hành quân của đơn vị trên chặng đường đó. Hai là bếp đặt dọc đường hành quân để nuôi dưỡng bộ đội.

         Quảng ghi chép vào sổ tay hai ý kiến đó rồi đứng dậy vươn vai. Anh chợt nhớ ra lá thư của Thanh vẫn nằm gọn trong ngăn kéo. Quảng xe bức thư đặt lên bàn, vẫn đứng mà nhìn từng dòng chữ một.

         “Anh. Em báo gấp để anh biết: Sáng nay em đến xí nghiệp có gặp bác giám đốc. Em vừa gợi ý việc xin cho anh về, bác bảo là rất tốt. Bác còn nói có gì tốt hơn là được nhận một kỹ sư lành nghề, lại trung úy, từng làm đại đội trưởng bộ đội chuyển về. Em viết thư thông báo ngay, để anh biết, suy nghĩ và chuẩn bị”.

         Bên dưới ký tên Thanh. Vẫn lá thư viết vội vã, nguệch ngoạc như cô viết trong lúc đang chạy vạy điều gì đó.

         Lại còn thế nữa cơ đấy. Quảng nghĩ rồi bước thong thả ra sân.

         Suốt buổi chiều Quảng đi kiểm tra kỹ thuật toàn bãi ô tô. Anh vừa rời bãi bước về nhà đã thấy lá thư thứ ba đặt ngay ngắn giữa bàn. Anh đi rửa tay và nghĩ: Không còn nghi ngờ gì nữa, Thanh nôn nóng muốn Quảng ra khỏi quân đội. Đây không còn là ý nghĩ chốc lát bồng bột của Thanh như Quảng vẫn tưởng. Anh lau tay xong vừa cầm bánh mì ăn vừa xé thư. Ba tờ pơ luya kín đặc chữ. Không phải là dòng chữ xiêu vẹo, cẩu thả mà lá thư viết cẩn thận với những nét bút mềm mại, tròn trịa của Thanh. Anh vẫn nhai bánh mì, ngồi lên bàn và đọc. Đọc được một hồi, Quảng bỏ bánh mì xuống lúc nào không hay biết.

         Lá thư Thanh viết vào lúc nửa đêm. Cô kể lại từ những ngày đầu họ yêu nhau. Từ cái ngày năm bảy hai, trường đại học của họ sơ tán ở một tỉnh miền Bắc. Một cái làng nằm trên sườn đồi bao bọc bởi những vườn cọ xanh ngắt. Cách làng không xa là một dòng sông nhỏ, nối tiếp là dãy núi đá và rừng đại ngàn. Lòng Quảng sống lại với những kỷ niệm mà thời gian đã lăm le vùi lấp.

         Khoa chế tạo máy của Quảng có ba chục người. Anh còn nhớ rõ từng khuôn mặt. Thằng Thảo trắng háu ăn đã vào quân đội. Nghe nói nó vẫn chưa lấy vợ. Điền đã đi nước ngoài và hoàn thành phó tiến sĩ loại ưu. Cái Thu đẹp gái nhất lớp cưới chồng và có một con. Còn Hải, chao ôi, Hải! Hải bây giờ ở đâu? Cái cô Hải kỳ lạ ấy trong đêm liên hoan chia tay vừa hát vừa khóc nức nở. Hôm Hải khoác ba lô ra đi, cô đòi gặp Quảng một tiếng. Gặp một tiếng để làm gì? Quảng tò mò. Hải dẫn Quảng đi chậm trong vườn cọ. Đến đầu đường mòn, Hải đột nghột dừng lại. Nước mắt cô giàn giụa. Cô kỹ sư xinh xắn ấy là cô gái quyết liệt thật. Cô đứng đối diện với Quảng và nói:

         – Đố anh Quảng biết Hải đi có viết thư cho anh không?

         – Có, nhất định sẽ viết.

         – Ngược lại, không. Không bao giờ.

         – Tại sao Hải lại nói như vậy.

         – Không những không viết mà Hải còn đi biệt tăm cơ. Anh vô tâm lắm. Anh có nhận ra tình cảm của Hải giành cho anh không? Từ trước ngày Thanh… Nhưng mà thôi. Nói thêm lúc này cũng không có lợi cho anh đâu! Thôi chào nhé.

         Hải chỉ thông báo như thế và ra đi vội vã như bị đuổi bắt. Cô như con chim bay vút vào không gian không hề để lại cho Quảng một dòng địa chỉ, một mẩu tin tức. Bạn bè cũ đồn rằng Hải vào Trường Sơn. Cô là kỹ sư nổi tiếng ở một trạm sửa chữa lớn của mặt trận. Lại có tin cô bị thương, đã ra miền Bắc, đang học thêm một lớp trên đại học…

         Những ngày đó, Quảng chỉ có mình Thanh mà thôi. Thanh đẹp hơn Hải, khôn hơn Hải nhưng lại không thông minh. Lấy vợ cần gì thông minh? Quảng đã nghĩ như vậy. Hai người yêu nhau, hai gia đình đã có sự đi lại. Họ chỉ chờ ngày cưới.

         Trong thư Thanh có nhắc đến kỷ niệm “rau lang” từ ngày đó. Đại loại ngày chủ nhật, các cô, các cậu rủ nhau mặc quần áo đẹp, mang túi du lịch “hái trộm” rau lang ở cánh đồng cách xa làng. Như là họ đi phố vậy. Quả thật nhìn họ đi, đẹp đẽ, thanh tao, ai ngờ đến cánh đồng khoai lang cả tốp ùa xuống hái ngọn. Bỗng một ông chủ nhiệm hợp tác phát hiện ra, ông vào thẳng nhà các cô nữ kiểm tra. Vừa thoáng thấy ông, mấy cậu nam trốn sạch. Còn lại mấy cô gái cuống quýt chống đỡ: họ mời ông chủ nhiệm vào nhà uống nước, ông lại đi thẳng xuống bếp,… thấy một nồi rau lang đang sôi, ông trừng mắt hỏi:

         – Các cô hái ngoài đồng phải không?

         Thanh sợ hãi quá:

         – Thưa bác… chúng cháu sẽ đền ạ.

         Ông chủ nhiệm không quát tháo, không bắt đền ai cả. Nhưng ông phê bình cho một mẻ. Cả lũ vâng vâng dạ dạ. Ngày mai bỗng thấy một bà mẹ gánh một gánh rau hợp tác đến cho sinh viên.

         Ngày ngày cứ cuốn đi. Thời gian không bao giờ trở lại. Thế mà năm nay Thanh đã hai mươi tám tuổi, phó phòng kỹ thuật. Ở cuối thư, lời Thanh càng tha thiết như kêu gọi Quảng hãy nghĩ đến hạnh phúc của hai người. Cô cho biết giám đốc xí nghiệp hứa sẽ cấp cho họ một căn phòng nhỏ nhưng đẹp. Quảng có biết căn phòng cuối dãy nhà ấy, sát giếng nước mà mỗi lần đi qua Thanh thường chỉ vào đó ước ao.

         Từ lúc đọc xong thư, Quảng bần thần cả người. Anh ở trong trạng thái bâng khuâng khó tả. Có cả buồn, có cả dằn vặt. Suốt ngày hôm sau Quảng trở thành con người không bình thường. Anh vẽ lại một bản đồ vùng Z ba lần đều hỏng. Anh xé toạc tờ giấy, đi ra sân. Ngay lúc đó, anh rủ Mẫn, một trung đội trưởng rất thân với anh đi uống nước chè. Hai người uống hết ấm chè đặc, mua thêm bao thuốc lá chậm rãi lên đồi sim cách xa đơn vị.

         Đây là quả đồi cao chỉ có sim mua, lau lách và những bụi cây dại. Đang mùa hoa sim, thứ hoa màu tím to như hoa chè rất xinh đẹp, nhưng chẳng có hương vị gì. Buổi đi chơi là những buổi trút bớt những niềm tâm sự ngày càng đè trĩu tâm hồn Quảng. Quảng nhìn một con chim chèo bẻo trôi lững lờ trên trời, hỏi:

         – Mẫn này!

         – Cái gì anh?

         – Ông đã thật buồn bao giờ chưa?

         – Ha… Ha… Vui nhiều nhưng cũng buồn nhiều chứ anh? Có hôm buồn, lại có một mình, tôi còn bắt dế cho nó chọi nhau cơ.

         – À…! Ông đã gặp khó khăn bao giờ chưa?

         Mẫn lại cười rất sảng khoái:

         – Cũng gặp nhiều chứ anh. Trong tháng này vợ tôi đang ốm ở nhà đây. Công việc bừa bộn chả có ai lo. Con phải gửi bà. Vợ phàn nàn thế, nhưng chẳng lẽ chốc chốc lại về? Thà cứ như ngày đánh Mỹ, mình đi xa hẳn lại rảnh.

         Hai người ngồi xuống một ngọn đồi cao nhất. Một lúc lâu anh mới hỏi tiếp:

         – Vợ con anh như thế anh định đi sao?

         – Định quái chi anh? Mình ở xa. Bà con trong xóm, trong hợp tác xã giúp gì được thì giúp. Không lẽ mình bỏ đơn vị mà về à? Ai dám nghĩ thế.

         Quảng gật đầu thừa nhận. Nói cho đúng ra Quảng đã hiểu người lính lớn lao chưa hẳn vì những chiến công họ giành được ở mặt trận. Việc đời bao nhiêu mơ ước và lo toan. Người lính ngày nay lớn lao nhất bởi cuộc đời ai sống mà không dự định cho riêng mình?

III

         Chỉ khoảng một tuần Quảng xốn xang bởi những lá thư của Thanh. Anh đã bình tĩnh trở lại. Có lẽ vì Quảng tin ở Thanh. Một phần anh lại quá bận. Anh viết thư động viên Thanh rồi lại lao vào công việc.

         Bắt đầu những ngày giáp tết. Mọi cuộc học tập, chuẩn bị đều xong xuôi. Có thể có lệnh cả đơn vị xuất phát tốt. Quảng bắt tay vào việc lo cho đơn vị ăn tết trước chục ngày. Chẳng giàu có gì, hợp tác ủng hộ cho con bò, bộ đội giắt ra suối giết.

         Đêm hai mươi rất vui. Dù mới sắp tết bà con còn đi cấy, bộ đội đã mặc quần áo mới đi chúc tụng nhau. Trong nhà treo câu đối, xếp bánh chưng, hương khói nghi ngút. Quảng đứng ra chủ trì buổi “đón giao thừa” sớm trước mười ngày.

         Cùng buổi chiều hôm đó, một việc bất ngờ đã đến với Quảng. Khi nhận được thư, Thanh nóng ruột đến không chịu được, lập tức đạp xe lên đơn vị đóng quân cách Hà Nội hơn năm chục cây số. Cô đi từ hai giờ chiều đến bảy giờ tối thì mới tới. Theo tay một chiến sĩ chỉ đường. Thanh dừng lại trước nhà chỉ huy đại đội. Bên trong diễn ra cuộc liên hoan ầm ĩ. Cô ngó vào thấy Quảng tươi cười nhìn anh chiến sĩ đứng ngâm thơ. Cô bỗng tự ái ghê gớm.

         Thì ra trong lúc cô lo đến cuống lên, thì ở đây Quảng đang hớn hở thế này đây? Một con người vô tâm đến thế là cùng. Mặt Thanh tái đi vì giận. Quảng được gọi ra. Tay anh vẫn cầm điếu thuốc. Trời tối, anh chưa nhận ra ai cả.

         – Ai đấy?

         Không có tiếng trả lời.

         – Ai thế?

         Vẫn không có tiếng trả lời. Quảng chột dạ cúi thấp đầu xuống nhìn cho rõ.

         – Có phải Thanh không?

         Vẫn không có tiếng trả lời. Quảng reo lên.

         – Ơ Thanh thật. Em đến từ khi nào?

         – Anh còn hỏi làm gì nữa?

         – Giận anh lắm hả?

         – Không bao giờ.

         Cái không khí “trục trặc” ấy cũng qua đi. Hai người lại ôn hòa. Có điều Thanh vẫn lặng lẽ, còn Quảng thì phấn khởi ra mặt. Quảng cho là Thanh chỉ lên đây thăm anh trong những ngày cuối năm mà thôi. Như người nhà các chiến sĩ vẫn lên chơi rất đông trong dịp này. Quảng đưa Thanh đi tắm giặt, thay quần áo. Thanh không nói không rằng. Cô lẳng lặng làm theo như một cái máy.

         Chín giờ đêm hôm đó. Quảng bày bánh kẹo tết của bộ đội lên đầy bàn. Lại cả bưởi, cả cam, cả thuốc lá và rượu. Chỉ có hai người. Quảng phấn chấn đưa trái cam chín vàng cho Thanh.

         – Bắt đầu đi em. Ăn tết sẵn sàng chiến đấu với anh.

         Thanh đặt trái cam lại đĩa, gạt mái tóc che nửa khuôn mặt trái xoan rồi hỏi:

         – Khoan đã, anh ạ, thế sự việc kia anh định thế nào?

         – Việc gì? À?…

         – Anh quyết định thế nào?

         – Anh chẳng quyết định gì cả.

         – Thật chứ?

         – Thật.

         Thanh đứng dậy. Cô không quên cầm chiếc áo len đặt ở bàn rồi đi ra cửa. Một luồng gió lạnh ùa vào nhà. Quảng đứng dậy sửng sốt gọi.

         – Thanh.

         Không có tiếng trả lời.

         – Thanh ơi.

         Vẫn không có tiếng trả lời. Chỉ có tiếng bước chân mỗi lúc một xa dần. Quảng rời ô cửa chạy theo. Khi Quảng đến, Thanh đã nằm im trên chiếc giường nhà khách, mặt quay vào vách. Quảng lay mãi, Thanh mới chịu ngồi dậy. Mái tóc đen trước má Thanh ướt hết nước mắt. Đó là đêm đầu tiên sau chín năm yêu nhau họ gắt gỏng với nhau. Cuối cùng, Thanh yêu cầu Quảng hãy trả lời dứt khoát: trở về cơ quan hay không về. Quảng cười nhạt:

         – Anh không thể về được. Theo lời em đào ngũ, là chạy trốn…

         Thanh nhếch mép cười.

         – Được thôi. Anh cứ ở lại. Thực ra chúng mình cũng chưa có gì ràng buộc nhau cả. Cho nên em không có quyền can thiệp vào công việc của anh. Nhưng… ở cơ quan em còn có một người. Người đó hơn anh một tuổi. Cũng là kỹ sư, có khi còn bản lĩnh hơn anh.

         Quang giật mình nhìn Thanh. Mặt tái ngắt. Tai Quảng ù lên vì đột ngột và choáng váng. Đây là lần đầu tiên trong chín năm yêu nhau anh bị xúc phạm một cách trắng trợn. Mặt Quảng run lên, anh bỏ cuốn sách trả lại bàn rồi bước ra, khép cửa lại. Đến mức này, Quảng không còn biết nói điều gì nữa.

         Đêm hôm đó, Quảng suy nghĩ nhiều lắm. Nhưng trong tâm trạng lộn xộn đau xót ấy, Quảng thấy hình như anh cũng chưa tế nhị lắm, chưa nói rõ đầu đuôi sự tình cho Thanh nghe. Sớm hôm sau, mới bốn giờ rưỡi Quảng đã dậy. Anh đi thẳng ra căn nhà tiếp khách. Anh cần phải nói thêm với Thanh. Anh rất tin là Thanh sẽ nghe ra sự việc. Nhưng cửa phòng khách đã mở toang. Trong nhà không có ai. Chăn màn được gấp gọn ghẽ. Quảng đang ngơ ngác thì một chiến sĩ nữ phục vụ ở nhà tiếp khách chạy ra. Cô cho Quảng biết Thanh mới đi được mười lăm phút. Đêm qua Thanh không ngủ, để đèn viết lách gì đó rồi lại đốt đi.

         Quảng nhìn ra đường cái. Xa xa có những bóng người đạp xe vội vã về xuôi.

IV

         Tất cả những sự việc xảy ra trên đây đều do Quảng kể lại với tôi trong đợt hành quân đi chiến dịch biên giới. Tôi lái chiếc xe mà anh đi cùng để chỉ huy hành quân. Quảng vốn là người ít nói, tôi còn cho anh là người khó tính nữa. Nhưng trước trận đánh ngày 16, không hiểu vì lý do gì, Quảng lại cởi mở như vậy. Chúng tôi ngủ trong một bản người Dao. Anh ôm lấy tôi và thậm chí kể cho gần đến sáng. Kể xong anh nhổm dậy dù không biết hút thuốc lào, Quảng vẫn cầm điếu xuỵt xuỵt vài cái lại bỏ ra. Rồi anh cười rất thoải mái.

         – Hàng trăm nghìn cô gái, cũng phải có người thế này người thế nọ chứ, đúng không cậu? Có điều kiện ta sẽ tìm một cô khác; còn trẻ chán, lo gì.

         Tôi biết Quảng rối lòng mình. Nhưng thôi, đó chỉ là chuyện riêng của Quảng. Về anh, chuyện đáng kể nhất vẫn là chuyện về những năm tháng sau này.

         Tôi và Quảng vẫn đi một xe. Chiếc ba cầu của tôi khỏe nhất đơn vị. Chúng tôi đi sau cùng đoàn vì Quảng phải hộ tống đại đội, phải giải quyết hậu quả hành quân. Công việc nặng nhọc nhất, đòi hỏi phải có kỹ thuật giỏi.

         Hôm ấy, chúng tôi trú quân ở “Cánh rừng chim xanh”, cách địch độ một cây số. Đang nấu cơm chiều ven suối cạn thì có điện của trung đoàn trưởng đi ở mũi hành quân khác gọi thẳng gặp Quảng. Quảng vội vã chui vào bụi lau, nơi chiến sĩ thông tin đặt máy. Trung đoàn trưởng ra lệnh đại đội Quảng phải hành quân cấp tốc. Địa điểm nơi đơn vị đỗ xe thuộc tọa độ địch sẽ tiến công buổi chiều.

         Quảng chui ra khỏi bụi lau um tùm, mấy giọt mồ hôi vương trên má. Anh cho trực ban báo gấp với đại đội phó cũng các trung đội cho xe hành quân ngay. Đoàn xe lại tức tốc nổ máy. Chiến sĩ nuôi quân nhăn nhó dội nước vào bếp. Nồi cơm to chưa kịp chín được đưa lên ô tô. Quảng đứng ở lối ra đường gọi từng xe một.

         – Ra đi… ra đi. Xe tám hai sao chậm thế?

         Đoàn ô tô nặng hàng vội vã chạy men theo sườn đồi. Trong lúc đó, xe tám hai vẫn nằm ì ra chắn một lối rộng. Xe nào vượt lên cũng ùn lại.

         – Xe tám hai… ra đi…

         – Báo cáo xe tám hai tự nhiên mất điện!

         Quảng không để ý đến chiếc xe hỏng nữa. Anh quay ra khoát tay giục chiếc ô tô chần chừ ra khỏi bãi. Không ai chú ý pháo hiệu đỏ đã nổ. Những vầng sáng cháy trên đầu xe. Bãi xe thưa dần. Khi chỉ còn vài chiếc, quay lại nhìn Quảng vẫn thấy chiếc số tám hai nằm lù lù. Anh sốt ruột chạy đến. Chiến sĩ lái xe tám hai toat mồ hôi, báo cáo:

         – Tự nhiên nó mất điện anh ạ.

         – Tránh sang bên kia.

         Quảng nhảy lên tai xe.

         – Điện đã tới chỗ nào rồi?

         – Điện đã có ở cọc khởi động.

         Quảng gạt mồ hôi trên trán. Những nét cau có trên mặt Quảng biến mất. Đầu anh hình dung toàn bộ sơ đồ mạng điện như một hình vẽ: Điện từ bình điện lên cọc chia điện. Từ cọc chia điện đi biến thế. Biến thế đến bộ chia điện. Bộ chia điện đi…

          Trong lúc đó, chiến sĩ thông tin nhận được điện của trung đoàn trưởng. Cậu hối hả chạy đến chỗ Quảng:

         – Báo cáo đại đội trưởng…

         – Cái gì thế?

         – Trung đoàn hỏi thăm tình hình.

         – Cậu lại báo cáo hộ đi. Ở lại còn hai xe. Một xe hộ tống và một xe hỏng. Đang sửa xe hỏng nhé!

         Quảng lại cúi đầu xuống chiếc ô tô chết máy. Cái hình vẽ mạch điện mà ngày học đại học anh vẫn dùng để ghi lại trên giấy. Cọc chia điện – Biến thế – Bộ chia điện – Nến… Anh tìm ra một đoạn dây đứt. Nối xong bộ chia điện vẫn lạnh tanh, không có điện. Anh cắn môi ngẩn người ra suy nghĩ.

         Tôi và ba chiến sĩ khác xúm quanh im lặng, lo âu. Trên đầu tôi, khói từ bên kia quả đồi cuồn cuộn bốc cao. Lác đác có tiếng súng nổ. Riêng anh chiến sĩ thông tin vẫn cứ cắm cúi bên chiếc máy vô tuyến điện cỡ nhỏ đeo vai. Anh hớt hải chạy đến:

         – Báo cáo đại đội trưởng!

         – Cái gì thế?

         – Trung đoàn lại gọi.

         – Báo cáo là xe chưa sửa xong.

         Chỉ có tôi, các chiến sĩ lái xe khác và cậu thông tin hiểu tình thế nguy ngập lúc này. Lần thứ hai Quảng ngẩng đầu lên, anh ra lệnh cho hai chiến sĩ lái xe lên ô tô của tôi để chạy. Anh bảo chiến sĩ thông tin và tôi ở lại bãi chờ anh. Một lát, chiếc xe nổ máy phóng ra khỏi bãi, để lại chiếc xe ô tô hỏng và ba người.

         Cậu chiến sĩ thông tin như sắp bật khóc. Một đằng trung đoàn trưởng cương quyết ép họ phải ra khỏi bãi lau. Một đằng Quảng cứ lì ra không thèm biết tới cuộc vây lấn của địch. Bọn địch đã chiếm được phía tây quả đồi. Chúng châm lửa đốt đồi tranh và đang dàn quân, vây sang phía nam quả đồi. Chiến sĩ thông tin hối hả chạy đến:

         – Báo cáo đại đội trưởng!

         – Cái gì thế?

         – Trung đoàn trưởng lệnh hủy xe ạ.

         – Ai?

         Một tiếng quát bất thần. Anh chiến sĩ thông tin run bắn lên, lập bập báo cáo:

         – Trung đoàn trưởng ạ.

         Quảng như không nghe rõ câu nói sau của cậu thông tin. Anh quay vào mạng điện chằng chịt trong ô tô. Mồ hôi trên mặt Quảng chảy thành giọt. Anh đã tìm ra nguyên nhân mất điện: cả bộ chia điện nhảy khỏi ốc định vị khi quay máy, bánh răng trục điện tê liệt, không chia nổi điện đi các nến. Anh lắp rất nhanh rồi nổ máy. Lúc đó, họ không còn khả năng chạy theo đại đội nữa. Phía nam nơi con đường hành quân, bọn địch đã đốt lửa. Cả một biển lửa đỏ rực, hơi nóng thốc cả lên mặt đồi.

         Pháo lớn của địch bắn dồn dập xuống ngã ba.

         Tôi nóng ruột ra mặt. Bởi nếu không nhanh thì ít phút nữa, cả quả đồi sẽ biến thành tro bụi. Chúng tôi lặng lẽ nôn nóng nhìn Quảng. Trong khi đó Quảng khẽ thở dài, ngồi hẳn xuống đám cỏ tranh. Anh cúi đầu, tay nhổ một đám cỏ suy tính một điều gì đó. Rồi Quảng nằm xuống, miệng cắn một cành cây, hai mắt mở to nhìn trời. Lúc ấy, cái bình tĩnh của anh làm tôi căm ghét. Tôi muốn giục anh nhưng lại sợ. Giây phút căng thẳng ấy có thể Quảng sẽ quát ầm lên. Cậu chiến sĩ thông tin rất trẻ con sụt sịt khóc. Còn Quảng vẫn lặng thinh, độc quyền quyết định sự việc.

         Chợt Quảng đứng dậy. Anh ôn tồn:

         – Thôi bây giờ sự việc nó đã như vậy rồi, không còn cách nào khác. Tôi sẽ ở lại tháo ống xả ra. Nổ máy, tiếng nổ sẽ như tiếng xe tăng. Có thể thoát. Các cậu chuẩn bị nhé. Theo con đường mòn này tắt qua dãy núi xa xa kia.

         – Em cũng về ạ?

         – Chứ sao?

         – Em xin ở lại.

         – Về.

         – Không. Cho em ở lại.

         – Đi: Tại sao lại không về?

         Quảng hét lên. Hai mắt sáng rực dưới vành mũ sắt. Nói cho đúng hơn là chúng tôi bị đuổi về. Quảng bảo có chết cũng phải chết cho hợp lý. Anh nói rồi lặng thinh, giục chúng tôi mang ba lô và súng ra khỏi xe.

         Tôi biết anh đã giành sự hy sinh về mình một cách thẳng thắn. Tôi khóc bao nhiêu, anh mỉm cười bấy nhiêu. Anh đưa chúng tôi một đoạn đường thì dừng lại. Anh thoáng bối rối. Một giây thôi, anh dặn:

         – Này, cậu ạ… nếu Thanh có viết thư lên, đừng cho ai đọc nhé.

         Khi Quảng nói điều này, tôi thấy anh thoáng buồn. Tôi có cảm giác như chưa bao giờ thấy Quảng buồn như vậy. Chúng tôi băng đồi ra đi nhưng toàn bộ tâm trí theo dõi những tiếng súng nổ ở vùng mặt trận.

         Ngay sau đó nửa ngày, chúng tôi đã biết tin Quảng. Anh đã tháo ống xả chiếc xe ba cầu. Anh nổ máy rất to. Trời tối mịt, Quảng lái xe ầm ầm chạy xuống dốc. Bọn địch đang đốt bếp nấu ăn, tưởng xe tăng của ta, chạy tán loạn. Một chỗ trống vài chục mét. Quảng lao xe qua đó. Khi địch phát hiện ra đó chỉ là một chiếc xe tải, chúng vội dồn súng bắn như mưa vào chiếc xe chạy rất nhanh xuống đồi. Chiếc xe bị hàng trăm vết đạn. Quảng bị ba vết thương một lúc. Hai viên bắn trúng bả vai. Một viên bắn trúng mông. Anh ngất đi, kịp lái chiếc ô tô chạy được một cây số rồi lao sầm vào một ụ đất. Các chiến sĩ công binh chạy đến, Quảng còn nằm gục trên vành vô lăng. Đồng đội nhanh chóng đưa anh đi cấp cứu. Vừa biết tin anh ở trạm xá một sư đoàn nọ, đại đội chúng tôi đã cử người đến thăm anh. Vừa tới nơi, bác sĩ nói đã chuyển Quảng về bệnh viện tỉnh. Cho người về bệnh viện tỉnh, lại được tin các bác sĩ đã đưa Quảng về Hà Nội.

         Ba tháng trôi qua, chúng tôi biệt tăm tin Quảng. Mặc dù ai cũng biết Quảng còn sống. Ở đơn vị, một cán bộ đi báo cáo thành tích hộ Quảng. Riêng tôi, tôi thầm nghĩ, thế là xa Quảng rồi. Có thể vĩnh biệt anh cũng nên. Đùng một cái, sáng hôm ấy, Quảng trở về đơn vị. Anh em chúng tôi ôm chầm lấy nhau, không khóc nước mắt vẫn rơi lã chã.

         – Em không ngờ anh lại béo ra.

         Quảng cười.

– Thì chỉ ăn và nằm thôi  mà lại. Buồn đến mức độ phải lấy sách kỹ thuật ra xem.

         Anh sôi nổi lắm. Rất sôi nổi là khác: Tôi biết anh không được khỏe như cũ. Anh cho biết, vì lý do sức khỏe, trên sẽ cho anh ra khỏi quân đội và tiếp tục đi học thêm một lớp trên đại học. Nhưng điều này quan trong hơn cả: Anh không nói đến Thanh mà nhắc đến tên một cô gái khác: Cô Hải. Rồi anh thôi cười, nói tiếp:

         – Cô ấy cũng là bộ đội, cậu ạ. Hôm gặp mình, cô ấy vui lắm. Có lẽ chúng mình được học gần nhau cũng nên.

                                                      Tháng 10 năm 1980

DÔ… TÁ DÔ… TA

         Tôi gặp Quỳnh là một câu chuyện cười ra nước mắt.

         Ngày ấy ta đang đánh Mỹ rất ác liệt. Tôi và Quỳnh ở hai đại đội của một trung đoàn xe cơ động. Chúng tôi chưa hề biết nhau. Sáng hôm ấy, tôi giấu xe sát bờ sông. Từ chỗ này sang nhà nữ công binh gần lắm.

         Thích nhất là được tắm sông buổi sáng. Tôi nhảy ùm xuống nước, nói theo kiểu các chiến sĩ là “tắm bài hai”. Đang vùng vẫy thì Quỳnh đến. Đó là một thanh niên to cao và đen như cột nhà cháy. Tôi dưới nước, Quỳnh trên bờ, tiếp nhau niềm nở lắm. Quỳnh tán chuyện cho tôi cười. Đang cười ha hả với nhau thì một tốp nữ công binh đi qua. Họ vác súng ống, cuốc xẻng đi ngược phía ngầm. Lúc này, Quỳnh mới bắt đầu hành động. Cậu ngước nhìn các cô gái rất nhanh rồi nhảy phốc lên xe tôi.

         Giật mình. Tôi quát:

         – Xuống! Ông lên xe tôi làm gì đấy?

         Quỳnh không hề nói. Cậu ta cắm cúi tháo máy phát điện của xe tôi.

         – X… uống… ngay!

         Tôi nghiến răng nói như gầm lên. Mặc! Quỳnh càng tháo nhanh. Tôi chực nhảy lên bờ, vội thụt xuống. Tôi lồng lộn dưới nước. Căm giận trào nước mắt. Tôi quát cả những cô gái vô tội đang kéo nhau đi qua. Tôi dục các cô phải đi nhanh hơn. Những cô gái bịt miệng đấm vào lưng nhau cười.

         – Này… đồng hương ạ…

         Quỳnh đứng dậy nhìn tôi. Tôi giật thót người. Quỳnh đã bê máy phát điện đặt lên vai, chân đứng trong tư thế: chạy?

         – Tôi chỉ mượn đồng hương thôi. Trả hàng xong, sẽ mang máy trả tử tế. Bí quá, làm liều. Xe tôi chở hàng đặc biệt mà.

         – Đặc biệt này…!

         Tôi nhảy mạnh lên bờ cao. Mấy cô gái hét lên, kéo ào nhau chạy vội. Tôi mặc quần áo và đuổi theo Quỳnh. Tắt qua một bãi trống. Chạy một mạch hết bãi bom tọa độ. Đến sát một chân đèo. Chúng tôi cách nhau chục bước. Quỳnh nhảy vù qua khe suối. Tôi đứng khựng bên này bờ. Khe nước rộng quá! Chúng tôi nhìn nhau. Quỳnh nhìn tôi thở. Tôi nhìn Quỳnh thở. Hắn bỗng phì cười làm tôi bật cười theo. Tôi biết, thế là hết, là mất “bay” máy phát điện.

         Quỳnh tỏ vẻ ái ngại lo lắng. Cậu vẫn đứng bên kia bờ, khuyên tôi:

         – Này đồng hương ạ. Cứ điện… tạm lên trung đoàn cũng được. Xe hỏng, không ông nằm lại thì tôi nằm lại. Hàng đếch nào chả vào mặt trận. Tớ là Quỳnh “xê” ba đấy.

         – Thế ốc mười bốn ông ném ở đâu?

         – Ấy chết! Tớ vẫn để gọn trên mặt máy ấy.

         Giận lắm, nhưng biết làm sao? Tôi hậm hực quay lại. Ngực tức đến nghẹn thở mà nước mắt cứ ứa ra. Bị mất cắp ngay trước mắt mà không làm gì được. Tôi giận mình ngốc nghếch. Tôi mắng Quỳnh. Hắn cứ tưởng một mình hắn “cung chuyến” và một mình hắn dũng cảm chắc? Còn tôi, còn tất cả lái xe Trường Sơn đều là những thằng sợ chết cả! Tôi quay máy điện thoại báo cáo trung đoàn. Đó là cách cuối cùng. Vừa có người thưa máy tôi đã nói. Tôi nói một hơi dài, xả hết nỗi căm tức đang hầm hập trong đầu.

         Bên kia máy, nghe xong, đồng chí tham mưu trưởng cười ầm lên.

         – Quỳnh hả? Thế ra cậu ấy là Quỳnh đấy hả?

         – Vâng. Quỳnh. Một cậu ăn cắp.

         Tham mưu trưởng trung đoàn vội an ủi tôi. Ông nói Quỳnh có chở hàng đặc biệt thật. Ông hứa sẽ đền cho tôi một máy phát điện mới tinh.

         Trưa, máy phát điện được ô tô gửi tới thật. Tôi lắp vội vàng vào xe. Khi máy đã nổ, tôi lao xe ra đường như một mũi tên. Bụng vẫn thầm nung nấu: phải đuổi bằng được “tay” này.

         Một lát, tôi tới K1, tới K2, rồi tới K3. Bom địch ném tọa độ xuống đèo… Lửa khói chưa kịp tan, bụi mịt mù… Tôi vẫn lao xe lên. Ngang đèo, một cô công binh cho biết: Quỳnh đã vượt qua đèo ba tiếng đồng hồ. Tôi chạy tiếp, bụng nghĩ: tới trọng điểm “Sa mạc” thế nào cũng gặp hắn. “Sa mạc” dài mười lăm ki-lô-mét. Một trọng điểm nổi tiếng ác liệt. Thế nào Quỳnh cũng dừng lại nghỉ, làm xe thật tốt mới dám vượt “Sa mạc”.

         Tôi chạy một mạch tới đầu trọng điểm. Một cô công binh ngăn xe của tôi lại. Cô cho biết, Quỳnh vừa chạy qua đây xong. Trọng điểm đang bị ném bom.

         Tôi mở xe bước xuống. Thế là hết! Tôi nhìn đoạn đường vắng vẻ chạy hun hút ra phía trước, không khỏi thầm phục thằng Quỳnh. Thằng cha này khá đấy.

         Cũng cần nói về “Sa mạc” một chút. Đây là một dải đất cát pha trắng lốp, cây cối thưa thớt dưới chân một cao nguyên. Từ nơi này đến mặt trận gần lắm. Thị xã A địch chiếm đóng không xa. Những tốp máy bay thường cất cánh từ trong phi trường của thành phố kiểm soát vùng này ráo riết. Trước đó một tháng, chúng ta còn bị lúng túng. Đồng chí binh trạm trưởng tiền phương đau đầu. Xe ở ngoài tống vào ùn lại đầu mép “Sa mạc”. Nhiều xe của ta lại cháy và nhiều chiến sĩ lái đã anh dũng hy sinh. Bây giờ, chúng tôi đã có cách chạy qua “Sa mạc”.

         Đang đi bên cô gái , bỗng có một loạt bom rung chuyển. Lát sau mới nghe tiếng máy bay ầm ì xa xôi. Đúng nó chộp được Quỳnh rồi. Tôi bỗng thấy xót xa thương Quỳnh. Cậu ta sẽ chết mất. Hai chiếc phản lực đuổi bắn một chiếc ô tô chậm chạp, tránh làm sao nổi?

         Tôi chăm chú theo dõi tiếng bom. Cô gái giục:

         – Ta đi thôi anh. Đánh kệ nó.

         – Cậu lái xe “hỏng” mất.

         – Anh Quỳnh?

         – Phải!

         Cô gái bật cười. Cô giảng giải cho tôi biết chúng nó chỉ tốn bom đạn đuổi Quỳnh mà thôi. Chính cô đã nhiều lần lo cho Quỳnh như vậy. Nhưng chỉ một vài ngày sau nghe tiếng còi toe toe, anh ấy đã ló mặt bám trắng bụi qua cửa, nhoẻn miệng cười. Tôi không tin cô gái. Tôi đi theo cô gái vào những dãy nhà hầm sát vách đá. Tại chốt công binh này tôi biết một điều quan trọng hơn. Quỳnh, chính là tiểu đội trưởng lái xe Vũ Trọng Quỳnh. Một người mà chúng tôi đều biết tên. Gương cứu xe của Quỳnh cũng bình thường thôi. Chủ yếu anh ta là mũi tên đầu tiên kéo anh em chúng tôi chạy qua “Sa mạc”. Cứ chạy, cứ chạy không cần biết có máy bay đuổi đánh. Đánh chưa chắc đã trúng. Trúng chưa chắc đã bị thương. Bị thương chưa chắc đã nặng…”.

         Thế đấy! Thảo nào nghe tôi kể tội Quỳnh, đồng chí tham mưu trưởng lại cười ầm lên. Cô nữ công binh ở cái chốt xa xôi này cũng biết Quỳnh tường tận và rất thích kể chuyện  về anh. Còn tôi, vừa nghe lại tò mò nhìn vào vẻ mặt sốt sắng của cô gái.

         Tôi gặp Quỳnh giấu xe trong một cánh rừng già sông B. Đôi bờ, những rặng cây to, người ta dễ nhầm với những vườn cây ăn quả thường xanh um theo những triền sông. Chỗ này là một cánh rừng mà cánh lái xe chúng tôi rất thích. Sông, nước rộng mênh mông, vừa kín, vừa mát. Có bãi cỏ xanh để nằm. Có hầm tránh bom. Vui nhất là có những cô gái.

         Cánh lái xe không vồ vập các cô cho lắm. Họ không vào nhà. Không làm quen tán tỉnh. Càng không rõ mặt nhau càng dễ trêu chọc. Càng dễ nói những câu mà quen nhau không dám nói, ấy là vài câu nói đùa đôi khi cũng quá lời thành ngoa ngoắt.

         Tôi xuống chỗ Quỳnh giấu xe. Cậu vẫn mặc chiếc quần đùi và chiếc áo bảo dưỡng đẫm dầu mỡ. Mặt Quỳnh hãy còn hớn hở vì một niềm vui nào đó. Cậu đứng dậy, nhoẻn miệng cười, nhìn sang bên kia sông. Chắc lại sắp đùa đây. Bên kia sông, mấy cô gái đang ngâm mình dưới dòng nước xanh biếc. Quỳnh bắt đầu lên tiếng:

         – Đằng ấy ơi!

         – Ai gọi “các chị” đấy hả?

         – Gớm sao mà đanh đá thế. Đến ế chồng mất thôi.

         Một cô gái ngoái lại, mặt vênh lên:

         – Có đanh đá mới trị được mấy ông tướng lái xe.

         Các anh chàng lái xe cười ầm lên. Những cô gái tưởng phớt lờ không thèm nghe, ai ngờ cũng cười rũ rượi. Lập tức một giọng hò trong trẻo từ bên kia vọng sang:

“Thân em có chịu nằm không

Thì em cũng chẳng lấy chồng lái xe…”

         – Ái chà… có thật không đấy?

         Cả hai bên bờ sông mọi người phá lên cười. Lúc ấy, tôi mới gọi Quỳnh. Quỳnh vừa thấy tôi vừa mừng rỡ, vừa lúng túng.

         – Ông đấy à? Tha lỗi cho mình chuyện vừa rồi nhé, chẳng qua mình bí quá. Thế ông ăn cơm chưa?

         – Chưa.

         – Ăn với tớ nhé. Có cá đây. Một thằng vừa lợi dụng bom đánh, ném bộc phá. Khẽ chứ. Cán bộ kia kìa.

         Tôi ăn bữa cơm rất ngon với Quỳnh. Mọi sự bực dọc đều tan biến hết. Sau bữa ăn, đang uống nước có một cô gái gọi Quỳnh đi làm phiếu nhận hàng. Quỳnh kéo tôi đứng dậy. Quỳnh nói tôi đi cùng với cậu cho vui. Vào đến đầu ngõ, một cô gái chỉ vào Quỳnh nói nhỏ với mọi người. Anh chàng tếu nhất đã bị phát hiện. Mặt Quỳnh đỏ bừng. Càng đi vào sân doanh trại, càng nhiều con gái. Chúng tôi toát cả mồ hôi. Quỳnh đang ngồi làm phiếu thì nhiều cô đã ập vào. Trước những đôi mắt đen hau háu, nghịch như quỷ, Quỳnh càng mất tự nhiên. Quỳnh vô tình vâng dạ trước cô thống kê trẻ, những cô gái chạy ra cửa cười ầm lên.

         Tôi quen Quỳnh và “yêu” Quỳnh từ đó.

         Chúng tôi có nhiều kỷ niệm chung với nhau. Những kỷ niệm sống chết trong những trận đánh ác liệt. Cả hai đứa bị bom hắt xuống sông trong lúc hí hoáy nấu cơm. Lần bị đánh chặn ở đường mười sáu.

         Rồi kỷ niệm xảy ra, ở giữa “Sa mạc” trống này…

         Tôi và Quỳnh bám nhau chạy qua “Sa mạc”. Bỗng tiếng pháo cao xạ 37 ly nổ lốp bốp như ngô rang trên đầu. Biết là có máy bay. Hai chúng tôi chạy theo cách tránh đạn hai mươi milimét. Chợt một tràng đạn dài sôi ùng ục trong không khí. Máy trong chiếc xe của tôi bị bắn tung lên. Chiếc xe chết máy tại chỗ. Quỳnh ập tới như một cơn lốc. Bụi ào lên phủ kín hai xe. Quỳnh ló mắt ra cửa biết ngay tình huống xấu, cậu lùi xe, tiến lên một đoạn kéo tôi luôn. Phải cứu lấy xe hàng. Ý nghĩ loáng qua đầu như một tia chớp. Tôi vừa mắc dây cáp vào xe, Quỳnh đã khởi hành. Lúc này tôi mới được chứng kiến Quỳnh chạy khá. Có thể nói là khá lắm. Chúng tôi chạy ầm ầm như một đoàn tàu. Hai chiếc phản lực Mỹ lồng lộn điên cuồng. Pháo của ta thi nhau đuổi nó lên cao. Quỳnh càng tăng ga. Chiếc xe chạy đến chóng mặt. Những loạt đạn rốc két thi nhau bắn đón đầu, đón đuôi. Những tiếng nổ lộng óc. Vừa chớm vùng cây xanh, Quỳnh kéo xe tôi chạy theo suối cạn. Vào sâu mấy trăm mét, Quỳnh mới chịu đỗ lại. Tôi và Quỳnh nhảy tót khỏi buồng lái. Cả hai vuốt bụi nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.

*

         Đánh Mỹ xong…

         Từ phía trong, chúng tôi vội vã hành quân ra miền Trung. Trung đoàn cơ động của chúng tôi lúc này càng vất vả. Chúng tôi cắm nhà trên một cánh đồng bỏ hoang đầy cỏ gianh và vỏ đạn đại bác. Chúng tôi niêm cất xe cộ, xây dựng nhà ở, trồng cây lương thực. Tôi trở thành một giáo viên thợ nề. Quỳnh nghiễm nhiên thành một tay lái máy cày thực thụ.

         Hôm tôi đến, Quỳnh chễm chệ ngồi trên chiếc DT75 lắp bộ lưỡi cày cao ngất nghểu. Trông thấy tôi, Quỳnh phanh máy cấp tốc, kêu to lên. Cậu nhảy từ trên bánh xích xuống đất chạy ào tới. Thôi thì cậu ta đấm đá làm tôi phát mệt lên mới chịu buông tha.

         – Tao sắp về phép rồi. Hiểu chưa? Tao sẽ cưới vợ trong dịp này.

         Quỳnh vớ vội chiếc điếu cày và bi đông nước chè đặc kéo tôi ra một bụi cỏ. Nắng, chúng tôi rúc vào bóng mát chuyền nhau tu bi đông nước ừng ực. Vui quá khiến Quỳnh lặng đi. Sau khi nói một thôi dài về cô Nguyễn Thị Kim Chi – người mà Quỳnh sẽ cưới vào nay mai, cậu nằm sấp xuống cỏ, nghĩ ngợi. Niềm vui khiến đôi mắt Quỳnh sáng long lanh. Tôi biết Quỳnh rất yêu người con gái này. Đã có lần tôi bắt được giữa lúc bom đang ném xuống trọng điểm, đèo tắc, Quỳnh đã giở ảnh Kim Chi ra ngắm. Tôi đòi xem Quỳnh không cho. Vật Quỳnh ra đòi xem, cũng không được. Nhưng có lúc nào đó vui quá, Quỳnh kể toạc ra rằng đã có lần cậu ta khoác vai cô ấy đứng dưới gốc cây dừa đầu ngõ, ông bác bắt được, cả hai đều bỏ chạy…

         Quỳnh chồm dậy háo hức:

         – Cô ấy học ngành xây dựng. Công việc của cô ta là thiết kế những đường ống dẫn nước chạy trong thành phố. Sư đoàn ta đang xây nhà năm tầng. Cũng cần một cán bộ như vậy lắm. Cưới xong, tao kéo cô ấy vào đây. Được chứ?

         – Tốt thôi Quỳnh ạ. Gian khổ nhưng được sống gần nhau vẫn thích – Tôi nói như vậy rồi tôi vội vàng chia tay Quỳnh.

         Hôm Quỳnh đi phép, tôi mang quà tặng đám cưới tới. Tôi chọn mua đươc chiếc phích nhỏ khá đẹp. Đồng đội trong đơn vị cũng tặng Quỳnh nhiều thứ. Trên bàn chất một đống những gói, những bọc, vẫn chưa hết người đem tới. Chủ yếu là lương khô. Lính thì chỉ có lương khô là nhiều. Họ bảo mang lương khô về để chia cho trẻ con. Rốt cuộc những hai ba lô nặng. Quỳnh nhấc lên vai ướm thử, lè lưỡi, lắc đầu, bỏ lại một nửa.

         Tôi vui sướng nghĩ về hạnh phúc của Quỳnh. Đang thêu dệt bao nhiêu cái đẹp về bạn tôi thì năm ngày sau bỗng thấy Quỳnh vác ba lô lù lù đi vào ngõ. Tôi giật mình chạy ra. Trời ơi, Quỳnh thật. Tại sao lại lên đơn vị? Tại sao lại phờ phạc đến như vậy? Tôi đứng sững người trước thềm. Quỳnh vẫn toét miệng cười. Khuôn mặt Quỳnh hốc hác khiến nụ cười cũng lạ hẳn. Doanh trại đơn vị bỗng náo động tin Quỳnh trở lại. Ai đang ngủ cũng chồm dậy. Có đang làm việc gì cũng kéo đến chật thềm.

         – Có việc gì xảy ra đấy hả?

         – Đã cưới vợ chưa? Hay có việc gì?

         – Tay Quỳnh này lạ nhỉ? Chê nhau hay sao mà lên phép sớm vậy?

         Quỳnh phải đứng lên thềm cao nói như diễn thuyết:

         – Cưới rồi. Tôi cưới vợ rồi. Mời tất cả anh em vào nhà hút thuốc. Các bạn yên tâm. Không có việc gì xảy ra hết!

         Quỳnh xé tung tút thuốc giở ra từng bao. Một đống, phải đến vài tút. Anh nhặt từng bao ném sang những dãy giường có người ngồi. Chốc lát, căn nhà rộng chật ních. Khói thuốc đùn ra ô cửa xanh lét như có đám cháy. Ai cũng dồn dập hỏi tin Quỳnh cưới vợ. Quỳnh nói với mọi người mọi việc đã xong xuôi, tốt đẹp cả. Tôi hiểu Quỳnh nên không tin như vậy. Tôi kinh ngạc thấy Quỳnh sút ghê quá. Vóc người cậu ta to lớn như đô vật, dăm ngày đã gầy xọp đi.

         Tận chiều mới vãn người đến hỏi thăm Quỳnh. Lúc đó, chúng tôi mới có dịp bên nhau. Chúng tôi đi từng bước ra đồng cỏ. Cánh đồng buổi chiều vàng mênh mông yên tĩnh. Sương đã giăng thành một đường viền màu biêng biếc rất đẹp. Xa xa, chiếc máy cày vẫn nổ phành phạch. Chúng tôi đi hết con đường ngập những hoa lau. Một thứ hoa vô duyên nở xòe ra, quá ngày, đang chuyển từ màu tím sang màu bạc phếch.

         Chúng tôi đi chậm dần. Khi dừng lại, Quỳnh thoáng nhìn tôi rồi mới nói.

         – Mọi việc bình thường thôi, Hải ạ.

         Rồi câu chuyện sang khôi hài:

         – Hải thấy lưng mình có vết bẩn không? Vết dép con gái ấy?

         Tôi nhìn lưng Quỳnh lắc đầu. Quỳnh ôm choàng lấy tôi xuýt xoa.

         – Cậu thông minh có tiếng mà vẫn khờ khạo. Tao bị Chi “đá” rồi.

         Tôi choáng váng nhìn Quỳnh. Rõ ràng đây là sự thật. Trong lúc tôi đang bị xáo động mạnh. Quỳnh cúi xuống bật lửa châm thuốc hút.

         Một lát sau, bình tĩnh hơn, Quỳnh thông báo vắn tắt: Anh về có gặp Chi. Chi bảo vẫn yêu anh. Gia đình Chi rất nhiệt tình. Nhưng tại sao Chi lại hẹn cưới một anh kỹ sư cùng cơ quan thì Quỳnh không hiểu. Anh đã ngăn không cho gia đình chửi mắng cô, ép cô phải lấy anh. Làm xong việc đó, Quỳnh xin cả hai gia đình trở lại đơn vị. Quỳnh vội nắm tay tôi, gương mặt lạ hẳn đi.

         – Tôi hỏi thật nhé. Hải có tin tôi không?

         – Rất tin!

         – Nếu Hải tin tôi xin đừng nhắc đến chuyện này nữa nhé. Kể cả động viên.

         Tôi hứa làm theo lời Quỳnh, song thương bạn vô hạn. Tôi biết, với Quỳnh, với một cuộc đời, đây là một sự mất mát. Quỳnh yêu sâu sắc nên nỗi buồn cũng sâu sắc lắm.

*

         Sau lần về phép. Quỳnh có nhiều thay đổi. Hình như cậu cao hơn nhưng gầy đi. Cậu mất hẳn tính sôi nổi, nghịch ngợm thường ngày. Quỳnh bắt đầu gọi tôi bằng anh, mặc dù hai đứa chúng tôi suýt soát nhau. Tôi chọc “Quỳnh bắt đầu làm người lớn”, Quỳnh chỉ cười. Đặc biệt từ ngày đó, không bắt gặp Quỳnh nói tục nữa.

         Mọi việc chưa kịp quên đi, chiến tranh lại xảy ra. Bọn Pôn Pốt đánh sang biên giới ta. Toàn trung đoàn tôi báo động cấp một.

         Một buổi chiều trong những ngày đó. Quỳnh vội vã đến tìm tôi. Thoạt trông, tôi đã ngạc nhiên: Quỳnh càng gầy càng cao, và đẹp hơn trước. Chúng tôi tiếp nhau vội vội vàng vàng. Quỳnh bực bội chìa cho tôi một lá thư anh đã định xé đôi thì phải. Quỳnh nói một cách cáu kỉnh:

         – Thì ra cô ta xem thường mình thật.

         Đó là thư của Chi. Tôi xem xong cũng căm giận không kém Quỳnh. Người con gái Quỳnh yêu viết thư xin lỗi anh và tha thiết xin nối lại mối quan hệ. Lời lẽ cô nói khá thành thật. Cô bảo cô đã nhầm lẫn. Anh chàng kia là người không tốt. Anh ta đã lừa dối cô.

         Chúng tôi không nói gì thêm về lá thư này. Vì chúng tôi đã hứa với nhau sẽ không nhắc đến Chi nữa.

         Chiến tranh giống như một ngày nhiều việc và bận rộn, khiến mọi người quên đi những vướng mắc riêng tư. Chúng tôi chưa kịp góp phần đuổi bọn giặc ở biên giới Tây Nam, kẻ địch đã nổ súng ở phía Bắc. Toàn trung đoàn tôi hành quân.

         Đêm. Đoàn xe dồn ra đường. Hết chiếc này, chiếc khác. Hàng chục. Hàng trăm. Xe kéo pháo, nòng ghếch dài. Xe chở đạn phủ bạt kín mít. Lặng lẽ, uy nghiêm. Chúng tôi chạy về phía Bắc Tổ Quốc.

         Quỳnh đi mũi Cao Bằng, rồi Lai Châu. Cậu chuyên lái xe phục vụ bộ binh chiến đấu. Nghe nói Quỳnh đã nhiều lần ra vào dưới làn pháo lớn của địch. Thằng lính đã qua đánh Mỹ vẫn khác chứ!

         Hôm tôi cơ động cùng bộ binh qua Cao Bằng thì gặp nhiều xe quân sự quá. Đang ngơ ngác giữa một ngã ba thì gặp Quỳnh. Cậu phanh xe gọi to:

         – Hải!… Hải đó phải không?

         Quỳnh nhảy khỏi buồng lái. Chúng tôi ôm lấy nhau. Hai đứa kể chuyện với nhau rôm rả lắm. Quỳnh kể tên làng tên xóm đã qua. Những Ngân Sơn, đèo Giàng, thị xã Cao Bằng, Bắc Kạn. Tôi kể chuyện Lạng Sơn. Kể chuyện qua Đình Lập sang Quảng Ninh. Đang vui Quỳnh im bặt. Cậu rút từ trong túi ra một lá thư dày đưa cho tôi, không nói gì cả. Tôi xem thư, Quỳnh ra tảng đá ngồi. Đó là thư của Chi.

         Tôi xem lá thư này rất kỹ. Đây là lá thư thứ ba của Chi sau ngày hai người quyết định thôi nhau. Cô kể chuyện gia đình, quê hương. Cô nói về tình yêu của cô với Quỳnh. Vẫn lời lẽ chân thành và thiết tha.

         Tôi trả lại thư cho Quỳnh. Lần này, chúng tôi cũng không đả động gì đến Chi cả. Nhưng từ lúc Quỳnh đưa thư ra, chúng tôi buồn hẳn đi. Tôi càng thương Quỳnh hơn. Dạo này chắc vất vả, Quỳnh đen như người bị phơi trên gác bếp. Chúng tôi chia tay nhau. Một lúc đã nghe tiếng Quỳnh quát tháo phía trước, lẫn trong tiếng xe, tiếng người đang ầm ầm đi về biên giới.

         Ngày lại ngày. Tôi quên hẳn lá thư của Chi, và cũng không nhớ chuyện cô ta và Quỳnh.

          Ít ngày sau, vào một buổi sớm, tiểu đoàn tôi gần một trăm xe hành quân cấp tốc đến đèo Z. Bọn địch bắn pháo khá mạnh. Những tiếng nổ ùng oàng nghe gần lắm. Đèo rất cao. Mưa xuân ướt nhẫy mặt đường. Tắc đèo. Một loạt súng báo hiệu. Ban đầu là tiếng quát dục nhau. Sau đó là tiếng dô ta đồng thanh lẫn trong tiếng máy gầm, tiếng lốp ô tô quay trơn xiết rin rít trên mặt đường.

         – Tất cả… tập trung lên đây…

         Một đồng chí sĩ quan be tay lên miệng gọi. Các chiến sĩ lái mở cửa nhảy xuống đường. Tôi đi dọc đường xe kéo pháo cắm đầy lá ngụy trang. Đèo quá cao. Ngước mắt lên vẫn thấy xe pháo như trên đỉnh đầu chạy ngược dốc. Tiếng dô ta mỗi lúc một to, một đông thêm.

         Chúng tôi xúm vào xe, đẩy. Sức người cộng với sức máy. Mặt mũi ai cũng đỏ ngầu. Quần xắn. Bùn nhớp nháp. Họ chen chân nhau, ầm ĩ, vui vẻ. Lốp quay sen sét, mùi khét và khói mù mịt. Chiếc xe kéo pháo nhích dần từng tý qua dốc trơn.

         – Ở một vùng quê.

         Dô… tá… dô… ta… này!

         – Hàm rồng ta đó

         Dô… tá… dô… ta này!

         – Có cô gái nhỏ

         Dô… tá… dô… ta… này!

         Tôi giật mình nhận ra tiếng Quỳnh. Thì ra cái anh chàng ngực trần, mặt mũi nhễ nhại mồ hôi đang hào hứng xướng vè dô ta lại là Quỳnh. Quỳnh cũng thấy tôi, nhảy chồm lên. Công việc tạm dừng một lát.

         Quỳnh gạt mồ hôi trên mặt.

         – Thế ra anh vẫn sống? Tôi hỏi anh luôn nhưng ai cũng bảo không biết. Tôi lại cho là họ giấu tôi.

         – Vừa rồi tớ ở lại đi biệt phái cùng một tiểu đoàn pháo.

         – Hà… hà…

         Chúng tôi cười với nhau. Lần này Quỳnh có vẻ béo ra mới lạ chứ. Khuôn mặt đầy đặn, chỉ quầng mắt hơi thâm vì lái xe đêm. Quỳnh rất vui. Tôi mừng lắm. Quỳnh nói tíu tít:

         – Tôi đi cả Lào Cai, lại đi cả Hà Giang. Chi vừa viết thư lên cho tôi, anh ạ. Cô ấy hỏi thăm anh nữa đấy.

         Tôi quay lại nhìn Quỳnh. Không, Quỳnh nói thật, không một chút đùa bỡn. Quỳnh sốt sắng kể thêm về Chi chô tôi nghe. Khi biết Quỳnh chấp nhận lại tình yêu với Chi, tôi càng ngạc nhiên. Quỳnh bảo anh rất thương Chi. Tôi hỏi có yêu không. Anh chỉ mỉm cười không đáp…

         Quỳnh đứng dậy. Chúng tôi lại xúm vào đẩy xe. Tiếng dô ta lại vang đi rất xa.

         – Cô khóc như cười. Dô tá… dô ta này.

         – Mắc bệnh vua lười. Dô tá… dô ta này.

         – Tính tình đỏng đảnh. Dô tá… dô ta này.

         Phía trước, pháo lớn của bọn giặc vẫn bắn từng chặp vào làng bản thân yêu của chúng ta.

                          Đình Lập – Xuân Mai, tháng 3 năm 1979

 

 

 

EM LÀ CÔ THANH NIÊN XUNG PHONG

I

 

          Cái tức nhất của thằng lái xe là lúc này. Đang chạy số bốn, số năm vù vù, phải dừng lại trước một ngã năm, ngã bảy không biết đi lối nào! Tôi nhảy khỏi buồng lái hậm hực, muốn quát tháo, mắng mỏ một câu cho hả dạ. Nhưng chung quanh tôi nào có ai.

            – Trước mặt tôi là ngã ba Xóm Vắng, cái tên người ta gọi và trong bản đồ tác chiến, cũng ghi như vậy. Đây không phải ngã ba, mà là một ngã bảy! Các con đường xòe ra như một bàn tay, lối nào cũng lầy lội, chồng chéo vết xe, vết pháo. Tôi biết đại đội pháo của trung đoàn tôi trả hàng cách còn xa lắm. Từ đây tới biên giới cũng gần. Bọn lính Pôn Pốt vẫn thường bắn pháo lớn quấy rối các làng xóm lân cận.

            Biết làm sao, biết trách ai lúc này? Tôi thở dài bực dọc, nghĩ – Tự tìm đường bằng kinh nghiệm con nhà nghề vậy. Tôi nhìn dây điện, ngả nào cũng chằng chịt! Tôi tìm một vệt khói nhoi lên trong rừng: không có một sơi nhỏ gọi là! Tôi cố gắng lắng nghe tiếng động, rừng chìm trong cái yên tĩnh đến phát sợ của hoàng hôn! Xa xa có ánh lửa lập lòe, nhưng đó lại là một xóm nhỏ.

            Bỗng từ xa có tiếng chân bước. Tiếng người đi chậm rãi, thong thả. Một người vừa đi vừa suy nghĩ. Tôi châm thuốc, yên trí đợi. Một chốc, càng rõ dần tiếng bước chân lội ào qua các vũng nước. Từ trong một lối mòn, cô gái cắm cúi đi ra, chiếc mũ cứng úp sụp trước mặt.

            – Có phải anh trả hàng cho đại đội sáu không?

            – Sao cô biết?

            – Biết chứ! Bọn em đào trận địa cho đơn vị ấy mà. Cũng sắp đến rồi anh a. Đi em dẫn đường cho.

            Cô gái nói mà không nhìn tôi. Lạ, cô thản nhiên mở cửa xe bước lên, không chờ tôi chào mời. Cô không biết lái xe là những người khó tính hay sao? Rất may cho cô, tôi chưa kịp nói câu nào đã nhận ra người con gái này vừa khóc, hai mắt cô đỏ hoe. Tôi ngồi vào ghế, máy nổ xình xịch, sắp chạy, lại nhận thêm ra một điều nữa ở cô: không những khóc, mà cô còn đang đau khổ vì một điều gì đó. Vẻ mặt cô hờ hững, lạnh nhạt. Cô đóng sầm cửa ngồi gọn trong buồng lái, hai mắt mệt mỏi nhìn về phía trước. Từ lúc đến đây, cô vẫn chưa nhìn tôi.

            Cô nói, tiếng thủ thỉ, cố gắng nghe mới được:

            – Độ hai cây số rẽ phải là tới, anh ạ.

            – Cô đi về đâu?

            – Em đi thăm bạn em.

            – Trai hay gái?

            – Bạn gái! Con bé cùng xã anh ạ. Hôm qua, chúng nó bắn pháo sang. Tội nghiệp. Trung đội chạy ra cứu hầm đạn mà chỉ mình nó bị!

            – À ra vậy!

            Tôi thốt lên, đạp ga cho xe chạy. Tôi lại nghe cô gái khóc nữa. Tiếng khóc lặng lẽ, không thành tiếng. Đi một lát, tôi biết cô là Hạnh. Các cô thuộc trung đội thanh niên xung phong đang phối hợp với đại đội pháo. Người con gái này không chú ý đến tôi, cũng không cần biết tôi là ai. Cô chỉ biết có vết thương của bạn. Cô đang nhớ. Đang thương, đang bị giầy vò về nó. Trông có thoáng có vẻ tiều tụy, đau thương, mái tóc dày hơi rối dưới vành mũ. Một vài sợi vương xòa trên mặt.

            – Nó tốt lắm anh ạ – Cô chợt kêu lên – Nó dũng cảm lắm! Hôm nó đi áp tải một xe đạn vào vùng K1 thì gặp ngay một tốp thám báo Miên. Bọn này bắn hỏng xe ta ngay từ loạt đầu. Anh lái xe núp sau một gốc cây cụt. Nó chạy vòng ra sau xe một đoạn và kêu lên. Nó kêu cốt để tụi lính biết nó là con gái. Tưởng có thể nuốt sống được nó, tụi lính lốc nhốc bò dậy từ tảng đá ven suối. Tên chỉ huy khoát tay ra hiệu bao vây. Chúng chưa kịp tản ra, anh lái xe đã bắn. Hai tay súng quét mấy loạt đạn, một thằng chết, những đứa còn lại chui vào rừng, chạy mất. Trò đời thế đấy anh ạ, nhiều trận đánh ác liệt không sao, trận pháo loàng xoàng, nó lại bị. Một mảnh pháo nhỏ bắn qua thái dương. Có khi mắt phải của nó mù mất, anh ạ.

            Câu chuyện làm tôi bỗng nhớ những ngày đánh Mỹ. Trong cuộc chiến tranh vĩ đại lần trước, đất nước đã có biết bao nhiêu người con gái thanh niên xung phong… Họ đã lặng lẽ hy sinh tuổi thanh xuân của mình để có ngày hôm nay. Lần này, trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, các cô gái lại tiếp tục có mặt ở tiền tuyến, hai thế hệ đều ra trận, họ có gì khác nhau không?

            Hạnh kể lại. Cô kể với giọng thổn thức, tin cậy, không cần biết tôi đang nghĩ gì.

            – Suốt đêm qua, nó chả ngủ được anh ạ. Nó bắt em viết thư bảo người yêu nó đang dạy học hãy quên nó đi. Còn nó sẽ chịu thiệt thòi, chả bao giờ yêu ai, chả bao giờ lấy ai nữa. Nó cao thượng quá, nhưng cũng bi quan quá, có đúng không anh? Nó nói với em như vậy, rồi nó khóc. Nó gào lên không cho ông bác sĩ mổ mắt. Nó bắt ông phải chữa khỏi cho nó. Tội nghịêp con bé, hễ thấy tiếng lách tách như tiếng dao kéo nó lại túm lấy em, cứ như em là người có thể bảo vệ được mọi thứ cho nó vậy. Sớm nay, tưởng mệt, nó sẽ thiếp đi. Em hỏi bác sĩ: “Thủ trưởng ơi, một tháng rưỡi nữa, con bạn em có lành không?”. Nó lồm cồm dậy gắt lên với em: “Một tháng là thế nào. Mười lăm ngày nữa tao về!”. Em chạy lại ôm lấy nó, khóc. Nó bịt miệng em lại không cho khóc. Em vẫn khóc nó bực đuổi em về. Một điều không ai ngờ, cũng sáng nay, nó lại gọi bác sĩ đồng ý cho ông phẫu thuật mắt phải.

            Hạnh càng kể, tôi càng thấm thía nỗi buồn của cô. Trước đau thương của cô gái, tôi thấy mình như một người có lỗi! Cần nói điều gì với Hạnh trong lúc này? Cần làm việc gì cho các cô, hỡi những cô thanh niên xung phong?

            Ý nghĩ lãng mạn ấy của tôi thật không đúng lúc. Điều không ngờ tới đã xảy ra. Xảy ra trong nháy mắt. Bọn địch bắn pháo! Hạnh vụt đứng dậy, mở cửa.

            – Nó bắn! Kệ nó anh nhé. Cuống lên là chết cả đấy!

            Trái đầu tiên quá tầm vọt ra giữa cánh đồng trống. Quả thứ hai, thứ ba chụm rơi đúng khu vực ngã ba. Chúng bắt đầu bắn hàng loạt, cấp tập. Chớp lửa lòe lên, sạt ngang bên tai. Tiếng đạn bay rú điên loạn. Hạnh bám chắc cánh cửa. Cô ngửa mặt nhìn làn đạn. Một chân cô giẫm lên mép bia, chân còn lại, đạp lên tai xe, thế đứng lao về phía trước, vững trãi! Cô vẫn ngoái cổ, nhìn làn đạn pháo đang rút tầm bắn lùi dẫn về phía sau.

            – Bên này! – cô quát lên – Bên kia nữa!

            – Theo tay Hạnh, tôi đưa xe vào rừng. Chiếc xe lách qua những gốc cây, những gò đất. Tôi biết mình đã mất bình tĩnh, tay lái không được chính xác cho lắm. Trước Hạnh, thật là nhục nhã nếu mình chứng tỏ là một thằng hèn nhát. Chết cũng phải vững tay lái xe.

            Xe của tôi chồm qua những lùm cây, đè nát lau lách.

            Hạnh vẫn nhìn đạn pháo chuyển làn, nhìn đường. Nhưng không thể nào kịp được. Chúng tôi đang nằm gọn trong tọa độ bắn của địch.

            Một quả nổ sát sạt, hất chiếc xe bổng lên, khối đất lớn ném vào buồng lái. Cùng một lúc, động cơ có tiếng khùng khục. Tôi biết máy đã bị ỡ. Một mảnh đạn pháo to như bàn tay xé buồng lái bắn vào sau lưng tôi. Tôi vừa buông tay lái, chiếc xe đã khựng lại, chết máy.

            Hạnh hết lên:

            – Anh lái xe! Anh lái xe ơi…

            – Cháy rồi… Xe cháy mất rồi…

            Rõ ràng có tiếng lửa bén rào rào. Tôi nhăn mặt lắp bắp kêu lên những tiếng cuối cùng. Hạnh hoảng hốt lao vào buồng lái gạt tay tôi đang chới với trước vô lăng. Cô ghé sát vào mặt tôi gọi ầm lên:

            – Anh lái xe… Anh lái xe ơi… Anh chết rồi à?

            Tôi chưa chết. Tôi vẫn còn nghe Hạnh gọi. Tiếng Hạnh thở hổn hển, hơi nóng từ miệng cô phả ấm mặt tôi. Tất cả tiếng động bỗng  nghe xa xăm như trong một giấc ngủ.

            Tám, chín năm phục vụ chiến trường, lần này là lần đầu tôi bị thương khá nặng. Đó cũng là kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời bộ đội của tôi. Lúc tôi tỉnh dậy đã là ban đêm. Hai cô gái cáng tôi bước hẫng xuống vũng bùn, chiếc cáng lăng mạnh làm tôi đau điếng, mở choàng mắt. Tôi nhận ra lưng bị trói cứng vì những lần băng dày.

            Mùa thu, gió vờn nhẹ trên cánh đồng bỏ hoang phảng phất mùi cỏ tươi. Trời se lạnh. Mảnh trăng nhỏ bỗng như vọt lên cao hơn mọi ngày. Hai cô gái cáng tôi là những người vui tính. Họ vừa đi vừa nói chuyện rúc rích. Theo sau, lẽo đẽo một anh y tá pháo binh. Tôi nghĩ thầm, chắc Hạnh không có ở đây. Hai cô gái này không buồn như Hạnh. Họ vui vẻ lắm, nói to, cười to. Còn Hạnh thì nói nhỏ, nói thầm thì, cười cũng khe khẽ. Hạnh là cô gái trang nghiêm, sâu sắc và rụt rè cơ. Cô đi đầu bỗng cười rúc rích… Cái cổ trắng ngần ló ra thấp thoáng.

            – Lái xe như anh này dũng cảm ra phết. Cứ như anh chàng hôm trước nó mới bắn một loạt đạn đã lao xe xuống hố. Bọn mình ra chống lầy, bọn mình quát cho. Ông ấy xấu hổ quá, phát khùng lên. Buồn cười lắm…! Anh này… cháy thì kêu cứu, bị thương cũng không kêu ca. Khá đấy!

            – Một thanh niên đẹp trai, rất đáng yêu nữa chứ!

            – Ì! Cái con này.

            – Tao thấy đẹp, tao bảo đẹp chứ sao? Tao có bảo mày khen anh ta là mày thích anh ta đâu? Gớm, cứ tưởng như đùa một câu đã dính chặt vào nhau ấy.

            – Con này bạo thật. Có im đi không nào?

            Tôi giật mình, Hạnh à? Thế cô gái đi đầu là Hạnh thật Tôi nhận ra dáng người thon thả của cô. Cười đấy, nhưng lại rụt rè ngay đấy. Họ lại đùa tiếp”

            “Ông” cũng làm bộ lắm cơ! Thế tớ hỏi: đứa nào khóc ban nãy, hả? Khóc cái gì? Khóc là thương, khóc là yêu! Có trường hợp đâm xe đạp vào nhau, kéo nhau vào công an lập biên bản, sau thành quen, thành yêu, thành vợ chồng đấy thôi! Tình yêu thường bắt đầu từ một kỷ niệm mà lại!

            – Ờ! Cái con này dơ dáng! Tao cấm mày nói nữa. Anh ấy tỉnh dậy rồi đấy. Người ta lại cười cho xấu hổ cái mặt lũ con gái hay vơ vào!

            Hạnh ngoái vào cáng xem tôi ngủ hay thức. Tôi vờ nằm im. Tôi nghĩ, các cô chỉ đùa cho vui thôi. Giữa cánh đồng trống, cần có tiếng cười lắm chứ. Nhưng, Hạnh khóc vì tôi thật sao? Tôi bỗng thấy thương Hạnh lạ lùng. Cô con gái từng chịu vất vả, ác liệt, lại là người phải khóc nhiều vì thương bạn, thương đồng đôi đó ư?

II

 

          Tôi được đưa tới bệnh viện quân y quân đoàn ngay trong đêm. Vào ngày thứ hai, tôi biết tin: xe của tôi bị hỏng nặng đã được kéo vào đại đội pháo trả hàng. Vết thương của tôi không nặng, nhưng chỉ một tí nữa, mảnh pháo lướt nhẹ vào cột sống, cũng đủ để mãi mãi tôi không trở lại đại đội sáu nhận xe, gặp lại Hạnh nữa. Một tin khác cũng quan trọng đối với tôi trong những ngày ấy: chúng nó bắn pháo sang nhiều, nhất là vùng ngã ba Xóm Vắng.

             Viện quân y dựng núp trong những vườn cây um tùm của một xóm người Chàm. Có thể nói ở đây rất vui. Đông người ra vào. Các chiến sĩ gái mặc áo blu trắng toát, thấp thoáng trong những đám lá xanh. Trẻ con hay chơi với các chú thương binh, giúp họ tập đi, nghe các chú kể chuyện, dạy hát. Ngày nào tôi cũng đẩy xe lăn ra ngõ nhà mẹ Mát trong xóm Chàm. Ở đây, có lối ô tô rộng chạy thẳng ra ngã ba Xóm Vắng. Tôi ngồi ở đó nhìn bầu trời bề bộn mây trên vùng giáp ranh mà thấy ngày dài khủng khiếp. Bụng như có lửa đốt, nhất là những khi có tiếng pháo lớn bắn loạn xạ. Chớp lửa nháy lên tận chín tầng mây. Những tiếng nổ đì đùng, xa xôi như tiếng sấm của một trận mưa rào.

            Tôi nhớ Hạnh! Lắm lúc nghĩ thật lạ. Sợ pháo bắn vào đơn vị, Hạnh sẽ bị thương. Nhưng lại mong một chiếc xe hồng lao vụt đến, đem Hạnh đến cho tôi! Chao ôi! Nỗi nhớ bồn chồn khiến tôi phát ghét cái đồi ở cửa vùng làng Chàm, ghét luôn cô y tá xinh đẹp tận Quảng Bình cũng nhận tôi là đồng hương! Cô ân cần chăm sóc tôi với thái độ khang khác. Thấy tôi gầy rộc đi, cô khóc. Tôi khuyên cô không nên khóc mà trong bụng vừa buồn cười, vừa khó chịu.

            Thật là! Tôi đã yêu! Thế ra người ta vẫn có thể yêu một cô gái mà người ta chỉ mới gặp có một lần! Hạnh đã nhen vào lòng tôi cái ngọn lửa tình yêu và nỗi nhớ vừa làm người ta sung sướng, vừa làm người ta khổ sở! Tôi sẽ nói thẳng điều đó cho Hạnh biết, rồi thế nào cũng mặc. Hoặc Hạnh chấp nhận tình yêu của tôi, hoặc cô sẽ ngạc nhiên nhìn tôi rồi phá ra cười cũng được. Nghĩa là tôi sẽ nói ra, thẳng thắn.

            Thời gian chậm chạp qua đi từng ngày. Chính những ngày nằm viện rỗi rãi, tôi mới nghĩ Hạnh là một cô gái đẹp. Một vẻ đẹp người ta không thấy hết bằng mắt thường. Hạnh có khuôn mặt trái xoan, trắng trẻo. Lúc Hạnh ghé sát vào mặt tôi gọi ầm lên, tôi bỗng thấy đôi mắt Hạnh sáng kỳ lạ, vừa thảng thốt, vừa trang nghiêm. Đôi mắt ấy thông minh và sâu thẳm. Hạnh có vẻ đẹp rất thực như bất cứ vẻ đẹp tự nhiên nào của các cô gái nông thôn. Cô thanh niên xung phong ấy chỉ biết nghĩ đến người khác, không nghĩ đến mình.

            Vào một buổi sáng, cô y tá Quảng Bình lại chạy đến đầu giường tôi. Cô đứng một lúc lâu rồi gọi:

            – Anh Kỳ!

            – Hả?

            – Anh sắp được ra viện!

            Tôi lồm cồm bò dậy hỏi với vẻ sốt sắng:

            – Thật à? Bao giờ? Tôi sắp được trở về đơn vị thật ư?

            – Anh thật là ác!

            Không trả lời tôi, cô y tá quát lên giận dỗi, nức nở, chạy vụt ra khỏi lán. Tôi hiểu lòng cô nhưng lại chạy ngay đi tìm đến bác sĩ. Họ cho tôi ra viện thật. Tôi đến quản lý thanh toán giấy tờ. Chưa bao giờ tôi ghét cái bệnh nguyên tắc vặt của mấy ông quản lý đến thế. Tôi cãi nhau với anh ta. Vì phải chia tay, đến chào mẹ Mát nên khá lâu tôi mới ra được con đường lớn.

             Bây giờ tôi mới sực nhớ đến cô y tá Quảng Bình. Chao ôi! Tôi thương cô quá. Một bóng áo blu thấp thoáng sau cây lê ki ma thấp lè tè. Một khuôn mặt tức tưởi khóc…

            Sẽ viết thư cho bạn, cô y tá thân mến ạ. Tôi nghĩ rồi chúi vào con đường rộng chạy về ngã ba Xóm Vắng. Hạnh, chỉ có Hạnh đang chờ tôi, thôi thúc tôi.

            Qua hai tiếng đồng hồ, vừa đi vừa chạy, mồ hôi đầm đìa lưng áo thì ngã ba Xóm Vắng hiện ra. Tôi ngơ ngác chốc lát. Cảnh vật nơi đây đã lạ đi nhiều. Vết xe chạy dày hơn, con đường như tòe ra, sắp phải đắp lại. Hố pháo dày, cày tơi tả cánh đồng trống. Rừng cháy sát sườn núi, trơ ra những tảng đá to bằng gian nhà.

            Tôi đã tìm được trung đội thanh niên xung phong. Họ đã tách ra khỏi đại đội pháo đang đào hầm hố, kiến thiết một kho dã chiến. Những ngôi nhà dựng kín đáo dưới lùm cây. Xung quanh, hầm hào từng cụm, chi chít, có một cô nuôi quân đang hì hục trẻ củi nấu cơm. Chị đại đội phó trực tiếp chỉ huy trung đội ân cần tiếp tôi.

            – Anh quen Hạnh lâu chưa ạ? – Chị đại đội phó rót nước mời khách, tủm tỉm hỏi.

            – Hôm nọ, xe của tôi bị đánh ở ngã ba…

            – À… Thế anh là Bình?

            – Không! Tôi là Kỳ.

            – Anh Kỳ? Thế anh bị đánh hôm nào? Có phải ngày mồng mười?

            – Không! Tôi bị đánh cách đây đã một tháng rưỡi rồi cơ. Tôi mới ở Viện ra.

            Chị đại đội phó đăm chiêu suy nghĩ.

            – Anh thông cảm. Ở đây vừa rồi nó bắn nhiều. Cũng có nhiều xe bị hỏng, không nhớ hết được. Anh cứ yên tâm ngồi chờ, Hạnh sắp đi làm về đấy.

            Chị đại đội phó chạy xuống bếp căn dặn chia thêm cho tôi một suất cơm. Quả như lời chị nói, đã có tiếng bước chân đi rậm rịch vào lối mòn. Mọi người cùng về một lúc. Cái sân vắng bỗng ồn ào tiếng người. Các cô xếp xẻng vào một chỗ, ẩy vai nhau, tranh chiếc gáo múc nước. Thật khó lòng nhận ra Hạnh trong đám đông. Cô nào cũng đội mũ, cũng bịt khăn che mặt, cũng nói thanh thanh. Chị đại đội phó len vào, đập tay vào một cô gái, tôi mới biết đó là Hạnh. Hạnh đứng giữa đám đông, chị đại đội phó nói nhỏ với Hạnh, cô nhìn vào nhà, rồi chạy vụt mất.

            Nhà bên đã có tiếng trêu chọc. Họ nói to lắm.

            – Thích quá đi mất! Đang đói, người yêu đến cũng no. Trưa nay tao ăn suất cơm mày, Hạnh nhé!

            – Mình trông mãi, cái anh pháo binh nhà mình cũng không dám sang đây. Người ta xa xôi cách trở vẫn đến thăm nhau. Hạnh mày hạnh phúc quá…

            Tôi không thể bình tĩnh được, ngồi thụt vào trong nhà, người nóng ran như sắp lên cơn sốt. Tôi chưa lần nào bị xấu hổ đến như vậy. Rồi sẽ chèo chống ra sao giữa những cô gái nghịch như quỷ này? Tôi vội cúi đầu giấu mặt. Đã có vài cô gái thập thò ở cửa ngó vào. Có cô còn táo tợn giả vờ khát nước vào ban chỉ huy xin một bát.

            Hạnh đi ra từ cửa. Trông cô khác hẳn. Cô đã trải tóc. Đã mặc một cái áo cánh hoa. Cô đi sang nhà chỉ huy. Chị đại đội phó nhổm khỏi ghế đón Hạnh. Đến cửa, mặt Hạnh đỏ bừng nhìn tôi, bỗng cô chạy vù ra sân. Cô giẫy lên, đấm túi bụi vào lưng chị đại đội phó cười sặc sụa.

            – Chị thì chị “chết” đi nhé. Sao lại lừa em? Hả? Nghe chị bảo, em đã không tin. Anh ấy tận trong Hà Tiên, ra đây sao được. Mặc chị! Em bắt đền chị đấy.

            – Ơ! cái con này! Anh ấy hỏi cô mà lại. Hạnh thanh niên xung phong. Ở đây chỉ có mỗi mày?

            – Không! Không!… Em bắt đền. Mặc chị. Em không biết anh ấy là ai cả.

            Một tình thế thật khó xử! Tôi đến thăm Hạnh. Hạnh không nhận. Tôi đã nhớ cô đến cháy lòng thì lại được đối xử như một người không quen biết! Tôi bước vào sân, thất vọng buồn bã hơn là xấu hổ.

            – Hạnh không nhận ra tôi à?

             Hạnh không nhớ tôi thật. Cô lặng lẽ nhìn tôi hồi lâu. Tôi phải nhắc lại trận pháo, Hạnh mới à lên. Cô vui vẻ mời tôi vào nhà. Không khí thân mật trở lại.

            Lần gặp ấy qua đi. Tôi lái xe phục vụ chiến đấu. Nay đi Xóm Vắng mai qua Ba Trúc, bận rộn không lúc nào nghỉ. Từ đó, tôi chưa gặp Hạnh. Tôi vẫn chưa nói được với người con gái ấy điều tôi quyết tâm ở viện quân y, nhưng mãi mãi tôi sẽ không nói ra được nữa. Không biết những ngày này Hạnh ở đâu? Chúng tôi như những con chim nay đây mai đó, còn Hạnh thì đã rời ngã ba Xóm Vắng. Thế đấy! Khắp một dải đất miền biên giới tây nam Tổ Quốc biết bao giờ chúng tôi sẽ gặp nhau?

                                           Đông Hà, ngày 10 tháng 10 năm 1978

 

 

 

DI CĂN

            Tôi thường nghĩ: đàn ông như mặt trời, đàn bà như mặt đất. Đàn ông là ban ngày chói chang, đàn bà là ban đêm mát mẻ, huyền diệu, bí ẩn và lôi cuốn. Đàn ông tư duy trên trời, vì thế dại dột dễ lừa. Đàn bà tư duy dưới đất, với cái hàng ngày, nên thực tế có phần ranh mãnh. Câu nhận xét ấy ít nhất cũng đúng với trường hợp cha con họa sĩ Kinh Lạc.

           Bố họa sĩ Lạc đỗ tới cử nhân khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn. Gia phả dòng họ có tiếng về Nho học. Thường các đời trước, nếu không có ngôi nào làm quan, cũng là bậc tri thức của vùng chuyên giúp dân phân xử đúng sai, đạo lý. Ông Cử học rộng (cả chữ Nho, chữ Pháp, chữ ta) nhưng bất phùng thời nên không làm chức sắc gì. Về quê dạy học cũng là để vui và giúp đời chứ không cầu lợi. Được ít năm, ông Cử theo cách mạng. Hòa bình lập lại, do có trình độ nên người ta xếp ông làm chánh văn phòng huyện ủy. Tiếc thay, ông đang làm hăng hái chưa đủ năm, thì ông bí thư mới về lại là một học trò giỏi của ông trước đây. Có thể do vô tâm, một lần ông bí thư gọi ông nói:

           – Ông Cử ạ. Mai có cuộc họp, nhờ ông chuẩn bị hộ cho cái hội trường.

           Vốn trọng đạo, ông Cử thấy lòng mình bị tổn thương. Lần đầu tiên ông chỉ thầm oán trách. Tại sao người ta lại có thể xem thường chính ông thày dạy mình như vậy. Do trách mà chán. Và tới lần thứ hai ông bí thư lại gọi ông Cử sai việc. Mặt ông tím ngắt. Do càng nghĩ, càng uất lên mà ông Cử quyết định bỏ về thẳng. Có ăn vàng ông cũng không ở lại.

           Sau cuộc chốn đời ấy của ông, bè bạn, họ hàng kéo nhau đến khuyên giải nhiều. Họ bảo sống giữa đời rồi cũng có lúc phải lụy. Âu cũng là vì tương lai các cháu sau này. Nghe khuyên, ông Cử không hé răng nói nửa lời. Ông khinh! Nhưng tiếc thay, cái trạng thái tình cảm có ý muốn xếp thứ bậc này con người hiện đại họ đã quên rồi! Trong cuộc sống của họ không còn từ “khinh”. Vốn là người có học, ông Cử không bao giờ chấp nhận lối sống cầu lợi. Càng ngẫm sự đời soi xét, ông càng đau cái tình đời xôi thịt ấy. Cái đạo làm người không bao giờ cho phép học trò xê dịch vị trí của mình cho dù mai sau anh có vinh hoa phú quý. Ông Cử quyết về làng.

           Ông Cử đã nghĩ như vậy khi về làng. Tuy dứt đoạn được với quá khứ một cách mạnh mẽ như vậy song trong lòng ông vẫn mơ hồ một suy nghĩ, nói cho đúng ra là một niềm hy vọng. Thế nào anh bí thư, học trò của ông chả lên xin lỗi. Ông chỉ trộm nghĩ thế. Thế nào cơ quan huyện chả cử người lên hòa giải? Ông chẳng dạy văn tự cho các ông bà đó sao. Dạy văn học là dạy cách làm người, dạy cư xử cơ mà?

           Nhưng chỉ có anh phó văn phòng mang cái thư tay của đồng chí bí thư lên gặp ông mà thôi. Nội dung lá thư cũng chỉ là đề nghị ông trở lại cơ quan làm việc! Ôi! Thư là mệnh lệnh. Thế là hết! Tận cõi lòng sâu kín của ông bỗng cuộn lên một cơn gió lạnh hoang vắng, cô đơn. Thế là hết. Nỗi uẩn khuất ấy cứ nuôi mãi trong lòng, không sao giải được. Cuối cùng ông Cử chọn giải pháp đẹp hơn cả: bỏ đất này mà đi. Từ đó, ông muốn các con ông theo đường khoa học. Cái nghề sách vở, giấy trắng mực đen, tài và kém, sang và hèn, giả và thật khó bề lẫn lộn.

           Đó cũng là lý do khiến Kinh Lạc, người con trai hy vọng nhất trong ba người con của ông Cử trở thành họa sĩ. Kinh Lạc hơn cha về mặt ngoại hình. Anh cao và trắng. Bề ngoài của anh dễ gây cho người khác thiện cảm. Nụ cười của anh thật dễ chịu. Nó bộc lộ một sự dễ dãi, thoáng đãng, cả nể. Phong độ từ tốn, nói năng lịch sự, và đặc biệt khả năng nhận biết cái đẹp ẩn dấu sâu xa trong thiên nhiên hoang lạnh và xô bồ.

           Và hình như cuộc đời giữa trước và sau, việc này và việc kia, tiền vận và hậu vận tồn tại một sợi dây trong suốt, mong manh. Phải chăng, đó là lô gích của tạo hóa, sự xúi bẩy của định mệnh? Bởi thế, nhân đợt về quê trong lành, được tận hưởng cái mát mẻ của ngọn gió lành, được tận hưởng cái quan trọng bậc nhất cuộc đời trai trẻ của Kinh Lạc đã diễn ra.

           – Có muốn lấy gái quê không? Không kém gì gái thị thành đâu. Này cổ cao ba ngấn, da như phấn, môi như son, vừa tươi vừa giòn, đáng tiền lắm nhé.

           Có một bà dì của Lac giới thiệu như đọc cả một bài vè như vậy. Ừ thì xem sao. Thứ nhất là chiều bà dì, thứ hai, chính Lạc cũng thấy hay hay. Rồi cái buổi sáng ấy, bà dì đánh tiếng nhờ Loan tới giúp bà buộc những chú lợn con vào rọ đi chợ bán cho mát tay. Chẳng là ở quê, người ta vẫn thường nhờ những người dễ tính đụng vào hàng, hoặc đón đường lúc ra chợ thì hàng vừa bán chạy, lại đắt. Lạc có ngờ đâu vừa trông thấy Loan, phút đầu ngạc nhiên, sau đó các giác quan của anh như bị trói cứng lại. Anh đã hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh tỏa ra từ thân thể mượt mà và óng ả của cô gái đồng quê này. Loan có nụ cười rất tươi. Dường như nụ cười trên môi cô thay cho tất cả. Được cái cô rất hồn nhiên. Cái hồn nhiên không cố làm ra nên rõ thoải mái và dễ chịu.

           – Mời cô ngồi.

           Loan cười, nhẹ nhành ngồi xuống.

           – Loan uống nước đi.

           Mắt Loan sáng lên khiến gương mặt thật rạng rỡ. Lúc đó, Lạc dường như hoàn toàn thụ động. Anh nói lí nhí và bỗng đương tự tin đàng hoàng như anh mà phải liếc trộm lên mặt Loan. Anh không nghĩ rằng anh sẽ lấy cô gái này làm vợ. Cô là ngọc ngà của cái thiên nhiên tươi xanh này, làm sao anh có thể sánh được! Loan là niềm tự hào của làng. Vẻ đẹp mà cô có là vẻ đẹp hoàn hảo về mặt thể chất.

           – Tôi có thể ký họa cô được không ạ.

           – Ký họa là cái gì cơ ạ?

           – Vẽ ấy! Nhanh thôi. Cô sẽ không phải chờ đâu.

           – Ờ được. Em cũng không bận.

           Kinh Lạc lật đật giở cặp vẽ ra. Anh cố gắng tranh thủ thời gian để ghi lại vài kiểu ngồi của Loan. Anh chưa hề gặp người mẫu người nào lại có tấm lưng thon thả như vậy. Vẻ đẹp nguyên sinh ấy thật hiếm hoi giữa Hà Nội, phần lớn các cô gái đều dùng kỹ thuật để làm dáng. Không hiểu ý nghĩ ấy nẩy ra từ khi nào, nhưng bỗng dội lên trong Kinh Lạc ham muốn được chép những đường nét thật sau bộ quần áo xuềnh xoàng kia.

           – Cô có thể “nuy” cho tôi phần ngực được không?

           – Nuy là cái gì?

           – Tức là bỏ áo. Tôi sẽ không đụng vào vai cô.

           – Bà dì anh mắng chết!

           – Tôi đóng cửa lại.

           Cô gái vốn có sự dễ dãi của thiên nhiên. Mặt cô thoáng hồng lên như phản sắc, cô lần từng chiếc khuy, vầng sáng của da thịt dần dần mở ra. Cô đang bóc mình như bóc một cánh hoa. Hơi chậm lại, hình như là ngập ngừng. Nhưng không. Cánh tay bị bó chặt vải áo. Cô từ tốn kéo thấp ống tay áo xuống.

           Kinh Lạc chưa gặp thân thể nào hoàn thiện như vậy. Một vẻ đẹp ngon lành, bí ẩn và đầy sự hấp dẫn. Anh không biết được rằng trong lúc anh vẽ, cô gái cứ di chuyển cái nhìn theo anh chằm chặp. Cô bắt đầu lơ đãng và uể oải. Lúc này cái nhìn của Loan mất hẳn thoải mái. Những tia sáng của lý trí trong ánh mắt cũng không còn nốt, thay vào đó là cái nhìn có độ nóng của lửa. Đến mức, cô đặt cái nhìn ở đâu trên thân thể Kinh Lạc, anh cũng cảm nhận rõ ràng, chính Kinh Lạc bắt đầu mụ mị. Và khi vừa chạm vào vai Loan với mục đích muốn xoay thế ngồi, cô đã đổ vào anh với một hơi thở dài hắt ra.

           Họ đã thành vợ chồng như vậy đấy.

*

           Đối với ông Cử, việc Kinh Lạc lấy vợ ở quê nhà gây cho ông phiền muộn. Tất nhiên ngay từ đầu ông đã không đồng tình với con. Nhưng Kinh Lạc vẫn cứ quyết, thành thử ông rút lui ý kiến. Ông bỏ quê ra đi, ông không còn muốn có một sự ràng buộc nào nữa. Bây giờ có Loan trong nhà ông vẫn linh cảm điều tai họa sắp sửa diễn ra. Tấn trò đời đôi khi vẫn ngoài sự mong muốn của con người. Ấy là chưa kể học Nho, biết xem qua, cộng với sự từng trải, ông Cử biết Lạc có trí, lại ham nghề. Vợ cứ nần nẫn ra đấy. Một thằng trọn đời lao động nghệ thuật say mê, không chăm sóc vợ con dọn dẹp nhà cửa, chấn chỉnh gia phong, nền nếp, ắt sinh chuyện. Trời đã muốn mưa, thì không chỗ này cũng chọn chỗ khác để xả nước. Điều đó là quy luật của đất trời, biết sao được! Tuy vậy ông Cử im lặng không bàn gì với con. Trai trẻ thời này nghe ông cho phải phép chứ chúng không làm gì theo cả. Đó cũng là nỗi buồn của một con người đã sống trái thời. Mấy năm tiếp theo sau đó, ông Cử răn mình mũ nỉ che tai. Rảnh thì uống trà ướp ngâu, đọc sách. Khỏe thì dọn cửa nhà cho con cháu. Ông không tham gia gì nhiều trong các việc lớn của con cái. Khi vợ chồng Kinh Lạc sinh cháu Thu Hoài, ông chăm nom nó lên tuổi thứ ba thì qua đời.

           Kinh Lạc dạo đó làm họa sĩ cho một cơ quan văn hóa. Đồng thời với anh, các bạn học đều lập được danh.

           Mà thời này có danh là có lợi. Đó là những họa sĩ trẻ nhanh chóng chiếm lĩnh được diễn đàn trong giới hội họa, mở các cuộc triển lãm trong nước và ngoài nước, tiếng tăm nhiều người biết đến. Không ít trong số ấy tạo lập được cơ nghiệp sang trọng với chức này, trọng trách kia, vợ đẹp con khôn, nhà lầu, xe hơi, khách thập phương vào ra tấp nập. Cũng nhiều người vẽ mãi không thành, rốt cuộc bỏ nghề.

           Riêng Kinh Lạc làm nghệ thuật thật khó khăn. Anh vẽ rất vất vả, không dễ dàng như các đồng nghiệp. Nhiều khi anh trăn trở mãi vì một bức tranh, đến lúc nó hiện rõ dần diện mạo, anh vùng dậy bật đèn sáng trưng để thực hiện. Nhưng hình hài khi được vẽ lên cụ thể thông qua các mảng màu, anh lại chán, xếp xó.

           Bạn bè của Kinh Lạc nhiều người tinh thông về nghề, cũng đánh giá thật khác nhau. Người khen, dường như cũng khen quá, người chê thậm chí còn nói một câu xúc phạm: Kinh Lạc chưa biết dựng hình thì đã làm nghệ thuật cái gì. Đại biểu cho cách nghĩ ấy là hội đồng nghệ thuật của cơ quan Kinh Lạc. Vì thế anh rất không may trên con đường tiến thân. Chưa ai trong hội đồng nghệ thuật lại có thể nghĩ: Kinh Lạc mười năm tới sẽ có một phòng triển lãm riêng. Bạn bè bán tranh tơi tới, còn Kinh Lạc thì chưa dám nghĩ đến điều đó. Đứng ngoài số đông kể trên thì có một giáo sư và ba bốn họa sĩ bậc thầy thường xuyên lui tới xem Kinh Lạc vẽ. Ông giáo sư, có thể vì tư chất, cũng có thể vì không phải là họa sĩ nên ông khẳng định Kinh Lạc là nghệ thuật đích thực. Thứ nghệ thuật trong suốt, chảy trong ruột các tầng đá, không dễ mấy ai lấy ra được. Các họa sĩ già tới xem xong thì rút lui. Họ không để lại một mẩu ý kiến nào gọi là. Duy nhất có một lần ông giáo sư sốt ruột hỏi, một ông họa sĩ trong số đó, ông ta chỉ thừa nhận Kinh Lạc vẽ lạ. Vì lạ mà ông thường lui tới để xem thế nào.

            Hình như từ ngày cụ Cử mất, nhà ít gặp may. Không khí gia đình buồn tẻ và tan nát. Kinh Lạc càng vẽ, càng thấy vô vọng. Nhiều đêm anh chong mắt nghiền ngẫm, rốt cuộc vì yêu nghề mà bật dậy cầm cây bút vẽ. Còn Loan, nụ cười vô tư trước đây bây giờ cứ thưa dần, rồi biến hẳn. Chỉ có bé Thu Hoài thì vẫn như con sáo đang tập hót tập bay. Dấu ấn của hoàn cảnh gia đình chỉ in trên nét mặt gầy và cái dáng mỗi ngày một dài như con cào cào của nó.

           Họ có bạn thân là ông giáo sư. Mối quan hệ của ông ta và gia đình Kinh Lạc chỉ có thể cắt nghĩa bằng sự thông cảm và mến tài mà thôi. Chính ông giáo sư cũng rất ái ngại cho tình trạng gia đình Kinh Lạc. Một hôm ông bàn rất thật:

           – Hay tôi cứ mời một ông bạn Tây đến xem tranh xem. Nhỡ ông ta thích thì sao?

           – Thôi thôi! – Kinh Lạc lắc đầu quầy quậy gạt đi. Anh lý giải – Nghệ thuật mà chính mình còn chán thì ai yêu được.

           – Thì cứ để xem sao?

           Loan chen ngang. Ấy là lần đầu tiên cô chen ngang vào việc cuả Kinh Lạc. Cô bảo ông không đồng tình với thái độ quá dứt khoát của chồng. Giáo sư ủng hộ ý kiến của chị. Kinh Lạc vẫn im lặng.

           Ông giáo sư chợt hiểu: cuộc sống chưa hề đặt cho Kinh Lạc một niềm tin về nghề. Và khó hơn là bạn ông, tính cách Kinh Lạc. Làm nghệ thuật đòi hỏi lòng tự trọng rất cao. Nhưng lẽ đời, vì tự trọng quá nhiều khi lại hỏng việc. Rốt cuộc, ông chỉ biết đứng dậy thở dài. Năm tháng ấy Loan cũng không trách gì chồng. Vì chị biết, Kinh Lạc cũng chẳng sung sướng gì. Hơn nữa anh không lười, thậm chí còn cực nhọc và vất vả nữa. Có lẽ anh chỉ không may mà thôi. Anh không may tức là chị không may nốt. Đàn bà lụy ở chồng, biết làm sao được?

           Bỗng một hôm, có một người đàn ông lạ đi chiếc xe máy đến, phong độ rất đàng hoàng, tự tin, thoải mái. Anh lễ phép cúi đầu “Thưa chị” và đưa mảnh giấy nhỏ. Anh ta không nói gì thêm, song Loan biết, anh ta bảo Loan phải đọc ngay.

           Thư viết “Tôi gửi chị người học trò có quen tôi này. Anh ta thuộc dân làm ăn, một ông chủ, song rất ham mê nghệ thuật. Anh ấy muốn Kinh Lạc dạy cho anh ta biết nghề truyền thần trên sơn mài. Tên anh ta là Công. Kính nhờ anh chị giúp đỡ”.

           Loan cười. Bao giờ cười, mặt chị ánh lên một cách hấp dẫn.

           – Thưa chị, em vào được chứ ạ? Chị tha lỗi, em muốn biết sư huynh em có nhà không ạ?

           Phút đầu, đôi bên nói với nhau như kịch. Khi bước vào nhà, thả mũ Công cũng cúi thấp người như kiểu học sinh học đạo vậy.

           – Thưa sư huynh, ta phải làm một cuộc hội ngộ đã ạ.

           Chỉ đi một lát, anh ta trở về đặt trên bàn bao nhiêu thức ăn, hoa quả và chai rượu ngoại. Kinh Lạc vốn tự trọng, thật khó xử. Nhìn mắt thì biết anh phân vân lắm. Còn Loan, phụ nữ vốn thực tế. Chị chẳng ngần ngại gì trước sự vòng vo của đàn ông. Chị vui vẻ giúp Công bày tất cả lên bàn. Cuộc vui bắt đầu, Kinh Lạc đỡ chén rượu từ tay Công, nói.

           – Học truyền thần trên sơn mài thì dễ. Nhưng nắm bắt được cái gì đẹp là đẹp thì thuộc về hội họa là khó hơn nhiều.

           – Được cứ từ từ đã sư huynh.

*

           Tất cả các buổi chiều, Công đều tạt vào để học việc. Anh chỉ cần biết được kỹ thuật truyền thần trên sơn mài. Nhưng Kinh Lạc có lẽ coi nhẹ việc đó nên thông thường các buổi trao đổi, anh nói nhiều những điều mà Công không cần thiết (tuy thế, anh ta vẫn cố gắng nghe). Anh muốn kết hợp nói cho Công hiểu thêm về lịch sử hội họa. Thường những lúc đó là lúc Kinh Lạc còn đang dở dang công việc của mình nên rỗi rãi. Anh nói nhiều về thời kỳ phục hưng. Về tranh dân gian các nước. Rồi các trường phái hội họa hiện đại khác nhau, đôi khi đối chọi nhau. Do chăm chú công việc nên anh không biết rằng tất cả những điều tâm huyết của anh, Công đều không hề chú ý hoặc không hiểu.

           – Công ạ – Có lần anh nói – cái đẹp sẽ góp phần cứu loài người đấy. Tiếp xúc với cái đẹp, người ta sẽ không ác, không xấu xa, tồi tệ, không bất lương…

           Không thấy Công vâng ạ. Kinh Lạc ngoái ra, đã thấy anh ta giúp Loan sửa lại cái chạn bát.

           – Thôi vứt nó đi chị ạ. Đáng bao nhiêu. Đây chị: tiền mua chạn này, tiền xích lô chuyên chở về đây này.

           – Trời ơi! Sao anh chu đáo thế?

           Nếu Kinh Lạc mỗi ngày mỗi nể nang ái ngại thái độ cư xử của Công thì ngược lại, Loan gần như phát hiện ra một cái gì đó mới mẻ ở con người này. Lần đầu tiên chị gặp người đàn ông cao to, thư thái, tính tình thật dễ chịu. Còn Kinh Lạc thì cóm róm, bận bịu. Mà cái vệt râu quai nón mờ xanh trên má Công đẹp như vẽ. Chị cùng không biết được rằng, căn nhà này từ hôm Công đến, chị đã chú ý nhiều hơn. Có lọ son phấn người bạn cho, chị bỏ quên cả năm trong tủ, Loan đã lục tìm.

           – Hôm nay, ngày lễ, em mời sư huynh đi chiêu đãi. Thưa sư huynh, người biết hưởng lạc là người biết lao động đấy ạ.

Kinh Lạc đang lúng túng, đôi mắt nhấp nháy, thì vợ anh đã hân hoan.

– Phải đấy. Hôm nay trời nực lắm. Ta ra lớp đón Thu Hoài đi Bờ Hồ thôi.

           Trong những cái nhìn thoáng qua của Loan với Công đã bắt đầu có lửa. Công nhận ra cảm giác ấy rất rõ. Thậm chí anh thấy chỗ nào nóng lên, quay lại thì đúng Loan đang đặt cái nhìn vào đó. Công né tránh. Phụ nữ khi yêu họ thật lộ liễu. Công đủ sức để kìm chế tình cảm. Song lúc xuống xe, mặc dù có Thu Hoài líu ríu đứng bên cạnh, khi bước vào cửa, Loan vẫn cố ý tỏ ra vô tình đặt nhẹ bộ ngực của mình vào bờ vai Công.

           Hôm sau, Công đến như mọi khi. Thu Hoài đi học chưa về. Kinh Lạc ở cơ quan về muộn hơn mọi ngày. Hôm ấy là ngày trực chính của anh ở phòng. Chỉ có Loan nắm chắc điều đó. Chị xách nước lau nhà.

           – Vào đây chú Công. Giúp một tay.

           Công sách nước giúp Loan. Lúc ấy Loan cười hơi nhiều, Công đã nhận được tất cả các thông tin phát ra từ thân thể mát mẻ, lộ liễu của Loan.

           Cặp đùi gần như bộc lộ hoàn toàn, Loan không mặc áo con. Những phần vải mỏng trên ngực bị ướt hiện rõ những đường cong rất cụ thể. Dường như bị kích động nên Loan có phần phấn khích, cười và nói huyên thuyên. Bước chân đi lại cũng thiếu ngay ngắn. Sự hở hang của Loan có sức khêu gợi ma quái. Chợt cô la to:

           – Con gì này.

           Con gián. Cùng lúc hai người đều chúi đầu vào gầm chiếc bàn nhỏ. Công nhận ra mùi da thịt đàn bà rất gần. Có thể ngay sát bên cạnh. Anh ta biết, chỉ cần quay đầu lại thì sẽ chạm phải. Quả nhiên, một cái nhìn rất thẳng chiếu ngay vào mắt Công. Cái nhìn ấy không còn sắc thái vui hay buồn nữa, nó vô hồn và là ngôn ngữ của bản năng.

           – Đừng sợ nhé!

*

           Quan tòa hỏi:

           – Thưa họa sĩ, anh có ý kiến gì hối hận không? Hối hận, nuối tiếc, hay xin hoãn thi hành bản án?

           Một phút suy nghĩ. Muôn đời vẻ mặt anh chứa chất sự âm thầm. Chỉ có đôi mắt nhấp nháy như ánh sao là phương tiện giao cảm để người ngoài biết anh có cá tính dễ chịu. Anh vẫn ôm riết Thu Hoài đang ép chặt vào lòng như đứa bé bị cảm lạnh.

           – Thưa tòa, không. Chắc tôi không bằng người khác nên vợ tôi đã ngoại tình với anh ta. Tuy rất đau, nhưng tôi cũng không ép buộc cô phải ở lại, phải hy sinh vì tôi. Đó cũng chính là lý do mà tôi không đánh, không chửi cô ấy như hôm quan tòa nói.

           Kinh Lạc và bé Thu Hoài nhớ mãi rằng: buổi sáng hôm đó, khi hai cha con cõng nhau ra đến cổng tòa án, họ bắt gặp ánh nắng vàng nhạt mà dân gian tường gọi là nắng “ốm”. Vĩnh viễn từ đó mẹ của Thu Hoài không cùng ở một nhà nữa. Nhiều lúc nhớ mẹ, nó cắn răng cho nước mắt trào ròng ròng mà không bật thành tiếng sụt sịt. Nó rất sợ thấy nó khóc, bố sẽ cười như mếu. Có thể do phải chôn mãi nỗi nhớ, nỗi buồn, sự hờn dỗi, oan ức trong lòng, và mất hẳn phần đời có mẹ nên cháu bé càng lớn càng lầm lỳ, hay phẫn uất, hay dỗi vặt. Đó là tiền đề cho cá tính mãnh liệt sau này.

           Năm bố mẹ ly dị, Thu Hoài lên sáu. Nó không biết vì sao người ta xử tệ với nhau. Song toàn bộ phần hiện tượng, nó không quên một lời nói, một cử chỉ nào. Ngày nào cũng vậy ít nhất một vài phút, nhiều nhất là cả buổi, từ sáu tuổi đến hai mươi tuổi, nó cũng lục lọi, khám phá, phán xét cả cha lẫn mẹ. Nó luôn đặt câu hỏi vì sao. Thiên hướng luận tội dần dần nghiêng về phía mẹ. Nó căm hờn vì biết suốt cả thời kỳ bố mẹ sắp bỏ nhau, nó không hề nghe mẹ nó hé răng nói nửa lời giành nó về nuôi! Bảy tuổi trở lên, mẹ tạt qua cổng thăm, gọi cho quà, nó đã biết vứt đi tất cả. Tám chín tuổi nó tự đe mình phải quên bằng được mẹ trong đầu.

           – Con không nên thế con ạ.

           Có lần Kinh Lạc biết như vậy, anh gợi chuyện con để khuyên giải. Thu Hoài hất mặt nhìn bố một cái. Lạ thay, anh càng dùng những lời lẽ mềm mại nhất, nó càng im lặng. Sự im lặng của nó, thật đáng sợ. Cuối cùng chính Kinh Lạc phải dàn hòa.

           Kinh Lạc không có kinh nghiệm nuôi trẻ con. Anh không có khả năng làm những việc khéo léo, tế nhị. Anh chiều con bằng cả tình yêu vụng về của mình. Có một hôm bé Thu Hoài đòi ăn đường. Anh lấy cho nó một cốc. Ăn hết, nó lại đòi. Anh lại lấy. Nó ăn hết, lại đòi. Anh phải van xin con. Đứa bé thét lên khóc tức tưởi như bị đánh. Mặc cho nước mắt rơi lã chã. Kinh Lạc phải chạy đi lấy đường cho nó. Tối hôm ấy, thu Hoài gặp trận đau bụng kịch liệt, phải đi cấp cứu.

           Sau trận ốm, Thu Hoài khinh khỉnh, Kinh Lạc bày đủ trò để mua vui cho con, nhưng nó rất nhanh chán. Anh phải giở cả cuốn ca dao dân ca ra để đọc và ngâm thơ dỗ nó. Thời kỳ ấy, đi đâu anh cũng vác con trên vai. Phần lớn thời gian vẽ ở công viên, Thu Hoài cũng buộc phải vắt vẻo trên đôi vai gầy ấy. Và có thể nói đó là thời kỳ Thu Hoài lớn lên trên vai cha.

           Năm Thu Hoài bắt đầu đi học, Kinh Lạc phải dành nhiều thời gian hơn để chăm con. Hầu hết, các bài toán, bài học thuộc lòng từ lớp một đến lớp năm, Kinh Lạc đều  trải qua cả. Anh giúp con nhưng giống như cùng học một lớp với nó. Anh thuộc lòng tất cả bài vở của con.

           Thu Hoài càng lớn càng lộ rõ những đường nét chịu ảnh hưởng của mẹ. Mặt trái xoan, da trắng. Cái trán hơi dô lên, tạo vẻ cá biệt rất duyên dáng. Chỉ có cái tính thì ngược lại mẹ hoàn toàn. Mẹ hồn nhiên hời hợt và dễ dãi. Nó tình cảm mạnh mẽ, sâu cay, yêu ghét cực đoan, lúc nóng như lửa, lạnh với ai thì còn hơn băng giá, tệ hơn, coi như họ không có ở đời. Vào tuổi mười bốn có lần học xong, gập bài, nó lim dim mắt nói với bố điều nó suy nghĩ.

           – Bố ạ. Bố không được lắm đâu! Con đang nói về cái tính của bố ấy.

           – Có thể đấy con ạ. Nhưng bố không thể thay đổi được cá tính của mình. Lớn lên, con sẽ hiểu bố hơn.

           – Ngay bây giờ thôi bố ạ. Chẳng cần lớn lên một tý nào nữa. Lẽ ra bố phải đập vào mặt cái thằng ăn cướp ấy.

           – Con đang nói ai?

           – Nói cái gã đê tiện phá tan nhà ta ấy.

           Ngay lập tức, Kinh Lạc phải làm dịu cơn căm giận sôi lên trong con. Anh khéo léo lảng sang chuyện khác. Kinh Lạc nhận ra rằng: Thu Hoài cố quên mẹ đi, nhưng nỗi hậm hực hình như lại tăng cấp số nhân.

           Chính cái thung lũng đau thương ấy đã tạo cho Kinh Lạc thấm thía và thấu đáo sự đời. Cái đẹp thật là khó tìm kiếm giữa thiên hạ như là cái thế trận hỗn mang, đầy những mưu cầu lợi lộc, cạm bẫy, chém giết. Cái đẹp bao giờ cũng phải đánh đổi bằng một cái giá rất đắt. Một loạt tranh ra đời trong suốt mười mấy năm cha con mang nhau trên vai. Và bức “con ngủ” chính là cái anh vẽ Thu Hoài.

           Hôm đó thấy con chơi trên bãi cỏ rất vui, anh sa đà sang góc bên kia của công viên để chép lại một phía của bờ hồ. Ai ngờ lúc chán, Thu Hoài gọi cha mãi không được. Nó chơi ở phía đông mà lại sang tận bờ tây tìm bố. Chắc là mệt và cũng khóc hết nước mắt, nó nằm trên bãi cỏ gối tay ngủ. Trở lại tìm con, không thấy, Kinh Lạc hoảng hốt. Anh vừa chạy vừa gọi. Chính lúc ấy cảm giác thật lạ lẫm về thân phận mong manh của kiếp người. Lạc trọn vẹn ghi  nhận hình ảnh không thể nào phai mờ ấy. Hơn một năm, bức tranh mới được hoàn thiện. Trong trẻo như được dệt bằng ánh sáng, bức tranh đã thức tỉnh được cõi sâu xa của mỗi người. Sau này Kinh Lạc mới biết đó chính là nghệ thuật đích thực. Cho đến khi thành cô gái và học đại học, mâu thuẫn trong tính cách của Thu Hoài bộc lộ rõ: Cô không thèm nhớ tên mẹ. Nhưng buộc cô phải nhắc đến, cô thường gọi là “bà ấy”. Cô rất mềm mỏng, lịch sự đầm ấm với mọi người, nhưng ai chạm đến cô, dù chỉ là quệt vào xe, cô cũng gay gắt, khác thường. Cô đặc biệt bất bình và thậm chí nổi khùng lên, mỗi lúc có ông bạn nào đó của bố xúc phạm, hoặc làm tổn hại đến bố.

           – Đó là một căn bệnh xã hội. Sự phẫn chí, hay còn gọi là bệnh khùng – Ông giáo sư, bạn của họ nhận xét như vậy. Rồi ông phân tích thêm.

           – Việc này là hậu quả của một lịch sử nuôi nấng thời thơ ấu. Hay cụ thể hơn là tâm lý đòi sự công bằng.

           Có một thời Kinh Lạc bán được khá nhiều tranh. Dư luận qua báo chí ồn lên. Mặc dù đang đi thực tập ở một huyện miền núi, Thu Hoài cũng đáp ô tô về ngay Hà Nội. Khi đặt chân vào cổng cô biết ngay nhà mình đông khách. Cô bĩu môi nhổ toẹt vào cái trò đời. Lúc hàn vi thì chả có ai lui tới. Bây giờ có tiền, có đôla, nhà xập xình, tấp nập. Cô nghĩ một cách phũ phàng như vậy.

           – Bố!

           Cô reo lên. Kinh Lạc cũng chạy ra ôm con. Cả hai đều thở một cách nặng nhọc vì vui sướng. Vài giọt nước mắt lăn trên gò má cô gái. Chợt Thu Hoài đẩy mạnh bố ra. Cô hỏi rất xấc xược:

           – Trong nhà có bà ấy phải không?

           Kinh Lạc tròn xoe mắt:

           – Sao con biết?

           – Con ngửi thấy bố ạ! Làm sao con đoán sai được.

           Rồi cô xộc vào nhà với cái nhìn lục lọi. Kinh Lạc đi theo con. Anh lộ vẻ hoang mang, không biết con gái sẽ bày trò gì. Đến ngay người mẹ cũng đang mở to mắt chờ đợi sự không lành. Thu Hoài nói thẳng thừng:

           – Biết bố vừa bắn được mấy cái tranh, con về để con giữ tiền cho bố. Bố không được để một đồng nào lọt ra ngoài hết!

           Những nụ cười dở cứ chết cứng trên môi những vị khách. Vài người rút lui ra về. Riêng mẹ Thu Hoài, cúi mặt.

           – Con!

           Thu Hoài giằng bố ra. Cô đã bị kích thích đến cao độ. Vất vả lắm, Kinh Lạc mới dẹp được cơn phẫn nộ của con gái. Nhưng chỉ được chừng một giờ. Sau đó, Thu Hoài tiếp tục gây sự với mẹ. Người đàn bà trót một thời dễ dãi ấy bây giờ cũng không sung sướng gì. Sau ngày ăn ở dấm dúi với Công bị đánh ghen một trận nên thân, chị đã trượt vào tay người khác. Ông chồng bây giờ là người thứ tư. Chị đã có năm đứa con, gia đình nghèo túng. Nghe tin Kinh Lạc bắt đầu khá giả, đứa con gái như hổ lửa đi vắng, chị chạy đến để cầu cứu anh. Chị thừa biết Kinh Lạc dễ mủi lòng. Nhưng thấy Thu Hoài về, chị biết không ổn. Chị đứng dậy khép nép xin về, chợt Thu Hoài cũng đứng phắt dậy luôn. Kinh Lạc không ngờ sự căm thù của con với mẹ lại có thể đạt tới mức như vậy.

           – Có lẽ bà nên cho tôi kiểm tra cái túi một chút. Tôi không yên tâm lắm nếu bà cứ thế này mà ra về.

           Sự trả thù không có khuôn mặt văn hóa. Chị Loan tái mặt, lật đật giở từng thứ một trong cái túi bằng nhựa cũ. Một đôi dép trẻ con, chiếc khăn mặt, chiếc quần lót cũ, hộp son phấn.

           Thu Hoài chỉ vào túi áo của người mẹ khốn khổ. Hoàn toàn mất trí, và hết chịu nổi với sự trả giá, người mẹ ấy quỵ xuống thềm nhà.

                                                                                 Năm 1990

TÔI CẦN TÌM MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG

            Đó là những ngày cuối cùng của Huệ còn day dứt về Thắng, anh lính thủy của cô! Người khai mở, nhưng cũng là người để lại cho Huệ nhiều ấn tượng mạnh. Anh cao lớn, trầm tĩnh. Anh khác hẳn những chàng trai từng quấy rối cô. Họ là cả một đám đông tham lam, đầy mưu mẹo, vòi vĩnh và đòi hỏi vô tận. Chắc chắn không phải vì là lính thủy mà anh đàng hoàng, đàn ông như vậy. Vĩnh biệt anh, Huệ tin rằng Thắng sẽ hiểu. Anh thông minh, độ lượng, vì thế anh sẽ thừa nhận việc họ “thôi” nhau là cần thiết. Chẳng có lần anh đã nói: Chân lý thật đơn giản và cay đắng. Có hai đĩa thức ăn, người đúng sẽ chọn đĩa thịt chứ không ai chọn đĩa rau muống. Nếu nay mai em có bỏ anh để lấy Quang thì cũng đúng thôi. Ngoài hai mươi, Quang đã có trong tay hàng chục triệu. Còn bây giờ Quang đã là một ông chủ trẻ cỡ bự. Ba cửa hàng, chỉ một ngày, Quang đã thu về triệu bạc!

           Cũng tại anh đi! Ai bảo anh lại ví dụ như vậy. Anh còn giải thích: Quang đẹp trai! Và đừng bao giờ nghĩ, người giàu không có trái tim! Đừng bao giờ duy lý như vậy. Huệ mơ hồ nghĩ rằng, chính anh là kẻ vẽ đường cho hươu chạy. Sau đêm tâm sự dài ấy Huệ bắt đầu lưu ý đến Quang. Thì lâu nay chăm chỉ và cần mẫn, cứ vài tối, Quang lại có mặt ở nhà Huệ. Anh kiên trì trong số ứng cử viên đến với Huệ. Có lúc mẹ, có lúc bố, tiếp họ. Bố hơi lạnh lùng với Quang. Còn mẹ thì đỡ hơn, xởi lởi. Huệ thì mặc! Cô cứ soạn bài, dọn dẹp, giặt giũ, cũng có lúc nói dăm ba câu với khách. Cô đã tạo sự thoải mái nhất trong cuộc sống quá bề bộn hàng ngày. Không vì không được tiếp mà Quang tự ái. Sau khi lùi chiếc Drim mới khự vào góc sân, Quang tự chọn chỗ. Có nước thì uống, không có nước thì lẩn mẩn một mình, dăm ba câu với mẹ Huệ rồi về. Quang yêu bóng Huệ. Anh ta nghiện cái dáng thung dung thuôn thả của Huệ đến mức ngày không gặp được thì bứt dứt khó chịu. Nhiều phụ nữ trẻ đẹp đã qua tay Quang. Thậm chí đã có lần anh phát mệt vì họ. Nhưng Quang chưa bao giờ nhớ đến họ. Cũng có thể vì họ đã nhiều và sẵn, dễ dãi và có thể chiều Quang bất kỳ lúc nào. Ngược lại với họ, Huệ như vầng ánh sáng trên đầu Quang vậy. Vẫn trông thấy mà Quang không thể nào nắm bắt được.

           Nhưng hôm ấy, Huệ đã ra chiếc bàn con để tiếp Quang. Quang có cảm giác cái nhìn đầu tiên của Huệ sáng lòa trên trán mình. Cái nhìn ấm áp và thiện ý. Huệ nghĩ: Anh Thắng nói đúng. Quang không đến nỗi! Đẹp trai, lịch sự, biết nói chuyện. Có lẽ lâu nay cả làng không ưa Quang nên cô cũng ghét lây đó thôi. Quang đâu có hợm! Trong khi làng nói Quang hợm mình. Quang đâu có đểu giả! (Trong tư thế nói chuyện, Quang còn nhũn nhặn là khác). Bảo Quang khinh người ư? Lướt xe về biệt thự nhà mình, không cần biết ông già, trẻ nhỏ! Làm văng đá vào chân ông lão tám mươi mà vẫn lăn xe đi như không hề gì xảy ra! Chưa hẳn! Thấy người giàu có rồi đố kỵ. Lẽ đời muôn thủa như vậy. Lại cũng là Thắng nói với Huệ như vậy.

           Chính hôm đó, Huệ tiễn Quang ra tận ngõ. Quang cũng nhận ra vẻ mặt Huệ lưỡng lự rất rõ. Tất nhiên đối với Huệ, Quang không dám cầm tay hay đứng sát vào người. Cô luôn luôn được Quang kiêng nể. Tối hôm sau Quang lại đến. Mặc dù chuyển lô hàng mới lên tận Hà Nội. Quang vẫn đến nhà Huệ đúng như mọi hôm. Tối hôm sau nữa Quang cũng như vậy. Anh có cảm giác mình đã tìm vào lối vườn hồng. Cứ thế, tối nào cũng vậy. Huệ bắt đầu thừa nhận sự có mặt của Quang là vui vẻ. Cho đến một hôm, khác ngày thường, Quang mang đến một trăm bông hồng bạch. Chưa ai làm như vậy! Vừa thấy Quang bê xuống ôm hoa lớn ấy, Huệ đã kinh ngạc. Đỡ ôm hoa thơm ngát từ tay Quang, Huệ còn liếc thấy hôm nay chàng rất trịnh trọng. Complê, cà-vạt, nước hoa thơm lừng. Và anh chàng cũng ngập ngừng, ấp úng. Nhiều lúc Huệ phải đỡ lời. Chính lúc đó, Quang xin cầu hôn. Huệ lặng đi một lát. Vẻ xa xăm, vời vợi của Huệ làm cho Quang hoảng sợ. Anh cảm thấy mặt mình tái nhợt, mồ hôi toát ra. Trông thấy vậy, Huệ phì cười. Cô bảo: Được! Anh để em suy nghĩ đã! Nhưng sao nhanh thế! Câu cuối cùng Huệ có vẻ giễu và đùa. Nhưng với sự trải đời có sẵn, Quang đọc được sự đồng ý của Huệ. Chẳng lẽ Huệ nhận lời ngay. Một cô gái gia giáo không bao giờ như vậy. Quả nhiên sau lần cầu hôn nghiêm chỉnh của Quang, Huệ trở nên dễ tính với anh hơn. Đêm khuya, tiễn Quang ra ngõ, Huệ đã để yên cho Quang hôn lên má. Huệ cười nhẹ, không tránh và cũng không thừa nhận. Xong rồi! Riêng Quang vừa lướt xe máy đi, anh đã muốn hét lên như vậy. Anh đã chiến thắng. Cô gái đẹp nhất vùng sẽ là vợ Quang.

           Đêm ấy Quang vui biết bao nhiêu thì Huệ buồn bấy nhiêu. Đến với Quang tức là vĩnh biệt Thắng. Con người lâu nay duy nhất ngự trị trong trái tim cô. Thắng bình dị và nhiều nét sang trọng. Cô học được ở Thắng, Thắng là thày giáo của cô về hiểu biết. Huệ được Thắng chiều chuộng như em, vì với Thắng, Huệ luôn luôn như cô bé con. Huệ nhớ ngày B.52 đánh Hà Nội, cả vùng ngoại thành này cũng bị ném bom. Có đêm cha mẹ đi vắng, bom rơi cháy làng, Thắng đã dắt Huệ chạy trên đồng. Một tiếng: Đoàng, Thắng lại dang tay ôm chặt cô bé con run rẩy tái mét vào lòng. Có cõng, có dắt, dỗ dành, khuyên dải Huệ, Thắng đã đón Huệ sang ở nhà bà ngoại làng bên. Huệ đã từng yêu Thắng toàn diện. Đến mức, có thể cắt thịt mình cho Thắng ăn, nếu cần.

           Huệ đọc thấy ý mình nghiêng hẳn về quyết định lấy Quang làm chồng. Hôm sau, cô gom tất cả thư từ của Thắng lại. Cô đọc đến đâu khóc đến đó. Cô chợt nhận ra rằng, yêu Thắng cô đã để anh thiệt thòi nhiều lắm! Ngoài những cái hôn cháy bỏng, phảng phất thái độ cao thượng, anh có được gì nữa đâu? Huệ từng biết đã có lúc anh có cái nhìn vào ngực Huệ. Đó là lúc anh giống thằng bé con. Nhưng Huệ đã để cho cái tích tắc ấy trôi qua! Hơn nữa Thắng cũng thừa sức chống lại cám dỗ của chính mình. Dứt khoát em sẽ đền cho anh, Thắng ơi! Huệ rên lên trong cái lòng quyết tâm ấy. Cô biết anh sắp về. Nhưng chiều hôm đó, lẩn mẩn như đứa trẻ, Huệ ra đầu làng. Nơi có cây si già cao tuổi. Có hàng chục đêm hai người ngồi ở đây tâm sự. Cô lơ láo nhìn quanh. Cô tìm lại mình, tìm lại anh, tìm lại những cảm giác đã qua. Cuối cùng, cô lấy một ít đất, chỗ họ đặt chân cho vào lọ thủy tinh. Cô đặt chiếc lọ ấy thật kín đáo, góc bàn thờ. Tự nhiên cô cảm thấy ấm áp, gần gũi như bản thân anh đang có ở trong nhà.

           Ngày ấy, Thắng cũng đang hoàn thành gấp công việc để đi phép tết. Hoa vi vu nở vung trên các bờ đảo, gió lạnh tràn về, chim biển kêu như bị đánh, Thắng biết mùa đông đã về. Anh thèm nhìn vào mắt Huệ. Trong đôi mắt Huệ có tất cả. Chỉ cần nhìn vào đó, ấp mặt lên đó là ngay lập tức anh cảm thấy đầy đủ. Mùa thu Thắng nhớ Huệ nhiều hơn mùa hè. Mùa đông, tỷ lệ nhớ ấy càng tăng lên. Anh đi kiểm tra đảo, Huệ vẫn lẩn quất trong đầu. Bận như lúc huấn luyện mà vẫn có Huệ trong trí nhớ. Còn ban đêm, chỉ cần kéo chăn ngang cằm, là Huệ đã hiện lên với anh thơm tho, mềm mại, ấm áp. Lính vẫn đùa rằng anh là: Huệ, đầu, mình, và chân tay! Thế cơ đấy. Nhưng Thắng cũng biết. Huệ trong trẻo và mong manh. Nếu Huệ lấy anh, giống như hạt cây rơi vào mảnh vườn chẳng lấy gì làm giàu có. Người lính, có gì lắm ngoài cuộc đời phong trần? Nhiều lần Thắng chạm tới, phân tích cho Huệ hiểu. Cô chỉ cười, gật gật, rồi cho qua. Gần đây, Thắng nhận được những lá thư ngập ngừng của Huệ. Anh giống nhà tiên tri vậy, biết cái gì đã đến. Tất nhiên thôi. Huệ phải tương xứng với người thật đẹp trai, thật giàu có. Mà Quang (cái cậu Thắng đã biết), suýt soát tiêu chuẩn ấy. Anh nghĩ như vậy vì ít nhất, hơn một lần về quê, nghe nói Quang yêu Huệ và đang bao vây, chinh phục. Anh không khuyên Huệ. Anh còn chạnh buồn là khác. Nhưng anh đủ lý trí để nói cho Huệ hiểu quyền lực to lớn của đồng tiền. Càng nói với Huệ điều đó, anh càng buồn. Anh thấy rõ lòng mình như có ngọn gió mùa đông đang lộng thổi.

           Năm ấy Thắng được thưởng phép. Vừa đặt chân về quê, anh đã nghe lũ trẻ chăn trâu hát: “Làng ta có cái đầm cong. Cô Huệ sẽ lấy con ông giáo Trình. Đám cưới tổ chức linh đình, thịt ba con chuột cho mình say ta…”.

           Bài đồng dao của lũ trẻ đã giúp cho Thắng biết thông tin. Hình như bài đồng dao bay xa lắm, nó cứa tim Thắng rớm máu. Tuy vậy, tối hôm ấy, anh không bỏ lệ thường. Ăn cơm xong, anh quần áo chỉnh tề, soạn gói quà mua ở thành phố mang đến cho Huệ. Anh xuất hiện đàng hoàng, chững chạc. Sẽ không bao giờ anh giật lại tình yêu, một khi đã vào tay người khác. Tình yêu không bao giờ giật được. Khi đã có trong lòng, nó sẽ còn mãi mãi. Cho dù đó chỉ là hình ảnh tồn tại trong hoài niệm.

           Thắng liếc thấy Huệ. Em ngạc nhiên khi thấy anh. Em chạy ra tới sân rồi reo to cho cả nhà nghe. Thắng run lên vì xúc động. Trong bộ đồ đen để ngủ, Huệ càng nổi bật hơn. Hôm ấy, Thắng nói chuyện bình thường, không để cho cả nhà biết mình buồn: Dở buổi, bỗng có tiếng xe máy. Quang đến. Đang hớn hở, liếc thấy Thắng, Quang đã thâm tím mặt lại. Biết tất cả, nên Thắng đứng dậy nói mình vừa về, còn mệt, cáo lui. Vẻ mặt Huệ tỏ ra bực dọc, ân hận. Cô muốn Thắng ở lại lâu hơn. Nhưng Thắng đã đứng dậy chào cả nhà. Cô đành miễn cưỡng tiễn Thắng ra ngõ. Biết mình không nên đứng lâu, Thắng nhìn Huệ, cô đã ròng ròng nước mắt. Có lẽ chỉ một phút trôi qua mà Quang đã lấp ló phía sau họ. Thắng ra ngõ còn nghe tiếng Huệ cáu Quang. Linh cảm cho Thắng biết Huệ đã thuộc về Quang. Phải thôi! Cả đêm ấy trằn trọc, Thắng kết luận. Anh đã có tình yêu trọn vẹn của Huệ. Thế là đủ. Còn lấy Huệ, anh sẽ làm cô khổ mất. Hôm sau, tinh mơ, Huệ đã tạt vào tận nhà tìm anh. Thấy anh trên giường, cô lao tới hôn túi bụi vào mặt. Cô chỉ kịp nói lửng lơ: Em hẹn anh tối nay ở cây si đầu làng. Nói xong Huệ đến trường ngay. Trong nhà còn lưu lại mùi thơm của cô.

           Huệ đã nghĩ là làm. Tối hôm ấy, họ lại đi bên nhau. Từ gốc si, Huệ chủ động đưa Thắng ra phía tam quan. Đây là cái chòi xa làng, đồn có ma, nên trẻ con ít lui tới. Dọc đường, Huệ rất lạ, cô nói luyên thuyên, có lúc lại lặng ngắt. Khi trăng lên ngang cành đa, cô nói trào như hơi thở. “Anh ơi! Ta chỉ còn hôm nay thôi. Em muốn cho anh. Ngày mai sẽ không còn gì nữa”. Rồi cô tự nguyện cởi cúc áo. Thắng cũng bị xúc động mạnh. Cũng may, anh kịp trấn tĩnh. Anh không muốn là kẻ vụng trộm, ăn cắp của Quang. Không! Và không bao giờ. Phút chót này anh chỉ muốn hôn lên cổ Huệ. Cái cổ trắng ngần dự báo một thân thể tuyệt diệu. Cũng lúc ấy có tiếng xe máy lồng lộn đầu xóm. Cả hai cùng biết Quang đang truy tìm họ. Quả nhiên ngọn đèn xe máy chói lòa chiếu về phía tam quan. Huệ giật thót người. Bình tĩnh hơn, Thắng kéo Huệ chạy tắt về làng.

           Sự trải đời đã giúp Thắng tự thu xếp trong lòng. Anh đã trở nên bình thản hơn. Anh tiếp nhận tin tức của Huệ qua người nhà. Rất đều đặn. Mồng năm, Huệ và Quang lên Hà Nội. Mồng sáu có lễ ăn hỏi. Mồng bảy, cả hai đi đặt quần áo cưới. Thắng sửa mái nhà cho bố. Dạy thêm tiếng Anh cho em gái. Vốn tiếng Anh còn lại ngày Thắng học ở Học viện quân sự. Hôm ấy, anh quét lại vôi tường, sắp sửa cho ngày tết. Và cũng đúng hôm ấy, Huệ và Quang đến gặp một họa sĩ nhờ vẽ mẫu thiếp và trang trí ngày cưới. Đêm về quá muộn. Cách tam quan chừng dăm cây ánh đèn xe chợt quét phải hai ba cái bóng lố nhố ngang đường. “Cướp đấy”. Huệ kêu lên thảng thốt. Quang loạng choạng tay lái. Họ bị chặn lại. Một giọng trẻ ranh: xin anh chị cái tết. Một tên vuốt má Huệ đùa cợt. Huệ vằng mạnh tay. Mặt Quang tái mét. Anh ta móc túi đưa cho tên kia gói tiền. Nó cười, Huệ gắt: được rồi, dẹp ra để chúng tôi đi! Không được như Huệ mong muốn. Bốp! Quang bị đánh phủ đầu. Kêu oai oái. Một tên giật túi. Với thói quen tự vệ, Quang bỏ chạy. Nó chạy theo đấm đá và cướp lạ chiếc túi đựng khá nhiều tiền. Xong xuôi, tên đó quay lại Huệ.

           Huệ chống chọi dữ dội. Tuy nhiên cô thấy mình khỏe mạnh và gan dạ vô cùng. Cô cắn nát tay một đứa. Cô vùng vẫy, vật lộn với đứa thứ hai. Và khi ông chăn vịt to lớn, ngực trần lăm lăm con dao nhọn xuất hiện, bọn chúng mới chịu bỏ miếng mồi.

           Bực bội, căm tức, nhục nhã, Huệ khóc thảm thiết. Ông chăn vịt dỗ dành mấy cũng không lại. Huệ vứt tất cả: xe  máy, guốc dép ôm ngực chạy về nhà. Đầu óc Huệ không còn biết gì nữa. Nhưng có lẽ trời định như vậy. Huệ không biết rằng mình chạy vào nhà Thắng. Tự nhiên Thắng bị đập cửa dữ dội. Lẫn trong tiếng đập cửa, anh còn nghe thấy tiếng thổn thức. Cả nhà chạy ra. Thắng kinh ngạc khi thấy Huệ trong tình trạng tả tơi ấy. Sau khi biết chuyện anh pha nước nóng cho Huệ tắm. Cô thay quần áo của em gái Thắng. Hơn lúc nào hết, anh muốn có mặt ngay tại chỗ đồng trống ấy. Anh muốn giáp mặt với lũ mất dạy. Có chết tại chỗ, anh cũng hả lòng. Bố anh can: đừng có dũng cảm không đúng lúc như vậy vô ích.

           Cả làng bị lục dậy. Bố mẹ Huệ chạy sang. Quang và bạn bè cũng tới để van xin. Nhưng Huệ không tiếp. Cô vào buồng rồi sập cửa lại. Cô thẳng thừng công bố là vợ của Thắng ngay từ đêm hôm đó.

           Chín giờ sáng hôm sau, người ta thấy đôi bạn trẻ đến ủy ban xin đăng ký. Quang kiện lung tung. Cả làng cười giễu cợt. Còn Thắng thì không chấp.

           Còn gì nữa mà chấp ở anh ta?  Thắng thành thật nghĩ như vậy. Sau ngày cưới, Huệ rất hạnh phúc. Cô cũng hiểu ra một điều với cô, lấy chồng đâu phải lấy tiền…

                                                                                 Năm 1992

 

 

 

MÈO HOANG

           Xin được bắt đầu từ một buổi chiều. Khoảng ba giờ. Buổi chiều ấy hiện lên như một nghiệp chướng vậy. Lúc nắng đã hoe vàng. Thứ nắng không còn tinh lực, giảm cường độ, thậm chí còn se lạnh. Ngoài hàng hiên, từng cơn gió chạy hun hút. Trên thềm căn nhà kiến trúc theo lối nhà thờ vừa đường bệ, vừa uy nghi, có ý tiêu diệt lòng tự tin của con người, vài chiếc lá khô rớt vào kêu lanh canh trên nền đá. Nơi đây luôn hoang vắng. Một thứ hoang vắng của quyền lực. Cả tòa nhà rộng, chủ yếu để bố trí phòng tiếp khách. Từ cửa kính, đến loại vôi xanh quét tường, mặt bàn phủ mi-ca sáng lạnh, đến nền đá hoa màu xanh lá cây đều gợi những cảm giác rét run lên, những cơn rét từ tim tỏa ra, tới các cơ bắp. Bên phải căn phòng khách ấy là buồng đồng chí cục trưởng. Từ phòng của ông nhìn ra một vườn hoa rộng trăm mét thì tới các phòng chuyên ngành. Nhiều khi đồng chí cục trưởng phải điện để gọi các cán bộ dưới quyền mỗi lúc có việc gấp.

            Cục trưởng vẫn đứng đây. Ông cũng xúc động. Hơn nữa hôm nay ông lại có hẹn nữa. Một cô gái rất trẻ. Cô trẻ và xinh đẹp đến mức buộc ông phải nghĩ đến tuổi tác của mình. Và ông cứ chạnh nhớ cái thời của ông. Cô gái này thật kỳ cục. Suốt buổi nói chuyện không sao, lúc cô ta chào để về, ngoảnh mặt quay lại, ông không sao quên được đôi mắt tròn xoe, đẹp một cách mềm yếu như con chim bị bão, thoáng ngơ ngác nữa, và cầu xin. Hình ảnh ấy như hóa thành đá trong lòng ông. Khó lòng xóa được. Và nó thức dậy ở ông những khao khát lạ mà ông từng gặp thời trẻ. Cục trưởng Mẫn là con người sắt đá, ít ra tất cả những ai biết đều thừa nhận như vậy. Nhưng lần này thì ông xiêu lòng.

            Ngót sáu mươi tuổi, cục trưởng Mẫn là con người thành đạt thuộc thế hệ ông. Ba chục thằng đầu quân ngày toàn quốc kháng chiến, đứa chết, đứa bị thương. Một mình ông vẫn cứ leo đều đặn, chắc chắn trên con đường danh vọng. Tất nhiên ông chịu bao hy sinh mất mát. Vợ chồng ăn ở với nhau ba mặt con nhưng cộng lại, may ra thời gian chỉ bằng hai năm. Ông từng là lính chiến thực sự, chiến dịch Điện Biên ông là tiểu đội trưởng. Bắt đầu đánh Mỹ ông được cất lên chỉ huy trung đòan, cuối năm 1975, ông ra quân chuyển về bộ với cấp bậc đại tá sư đoàn trưởng. Hai năm về trước, lẽ ra ông đã lên thứ trưởng. Tiếc thay ông thiếu một cái bằng đại học chuyên ngành.

            Cục trưởng Mẫn thuộc loại người có năng lực, quyết đoán trong điều hành cơ quan. Ông thuộc diện biết mình và không có nhiều tham vọng quá so với khả năng. Vì thế hàng cục trưởng của Bộ, ông thuộc loại có uy tín. Tất nhiên người ta nể và sợ ông, hơn phục và yêu quý. Đó cũng là lý do mà bộ đã xếp ông điều hành cục quan trọng này.

            Cục này ai cũng thuộc lòng phép đối xử của ông. Và chả dại gì mà gây sự với con người ấy. Trước đây cũng có đấy. Nhưng toàn là những chuyên viên vừa được chuyển về, tưởng rằng nói sự thật là hơn. Ai ngờ điểm lại, ai gây cho ông sự khó chịu đều một năm sau, khi tất cả mọi chuyện tưởng đã qua đi, đúng là lúc số phận giáng vào đầu người đó, êm nhẹ và không có phản ứng gì, hoặc đi học, hoặc chuyển công tác, hoặc được đi biệt phái… Có lẽ vì thế, hàng cục trưởng cùng bộ, trước mặt ông, mọi người đều khuôn vào một cái khuôn vành vạnh, thậm chí chả ai giám đùa với ông cho thoải mái.

            Chiều nay, cục trưởng Mẫn cảm thấy bùi ngùi. Gần đây, ông vẫn thường có lúc phải thao thức tới cái quá khứ vinh quang và xa vọng của mình. Tất nhiên vì tuổi già. Tuổi già hay sống với cái đã qua. Còn vì ông cô đơn nữa. Vợ, tóc bạc trắng xóa. Con, ba đứa đã nên công nên chuyện. Con bé út, đứa ông yêu nhất đã cưới một anh chồng người Đức. Trọn vẹn. Ông không còn gì để lo. Thế mới biết nỗi buồn của anh chàng vận động viên leo núi! Chưa tới đích thì sự hăm hở sức mạnh tìm kiếm, chinh phục. Tới đích rồi, có nỗi buồn của con người thành đạt, mỹ mãn. Cũng còn một lý do nữa, nhỏ bé và tế nhị. Ấy là sự hiện diện của cô bé. Ngay lúc này ông quên tên cô ta.

            Cục trưởng Mẫn nhớ thời ở trung đoàn. Ôi mảnh đời ấy đẹp làm sao. Đó là chặng đời hào quang nhất của ông. Nó dính dáng đến thời trai trẻ. Chưa tới ba chục tuổi đầu, ông đã chỉ huy một trung đoàn chủ lực. Ông tới đâu, những con mắt ngưỡng mộ, những bài ca dành riêng cho ông rì rào, thì thầm trong công chúng. Những cô gái đẹp nhất các vùng ông từng đi qua đều nhìn ông với cái nhìn thèm khát. Và đó cũng là chặng đời ông buông neo.

            Vợ ông, một cô gái Hà Nội theo gia đình về Yên Châu (Sơn La) sơ tán. Ông còn nhớ đó là vùng xoài nổi tiếng. Cô mà ông yêu nhất là con gái ông chủ hiệu may mặc. Hoàng Yến, tên cô, có nghĩa là con chim yến vàng. “Con chim yến vàng” ấy có nước da trắng ngần, dáng đi uyển chuyển. Trung đoàn trường ngày đó thường họp hành xong thì sang nhà cô rồi hai người luồn cửa sau lên đồi chè tình tự. Do mê đắm nhau mà trong một cuộc dạo chơi, họ đã hiến dâng cho nhau. Suốt cả tuần đó, trung đoàn trưởng Mẫn bị cơn lốc mạnh của tình ái cuốn hút. Chính cái lúc cơ thể điên lên trong cơn xúc xiểm của bản năng ấy, ông Mẫn biết, ông sẽ không chọn Hoàng Yến làm vợ, một trong nhiều ứng cử viên sẵn sàng làm người nâng khăn sửa túi cho trung đoàn trưởng. Cô ấy chính là bà Thu nhà ông bây giờ. So với Hoàng Yến, bà Thu có kém nhiều về sắc, nhưng lại được cái đức hạnh. Sau này về làm vợ chồng của nhau rồi mà bà vẫn còn đỏ mặt bẽn lẽn.

            Gần đây cục trưởng Mẫn cứ có cảm giác ngày ấy như hôm qua, hôm kia vậy. Ông thường gặp lại Hoàng Yến trong giấc mơ, vẫn đẹp, vẫn trẻ trung như ngày xưa. Mấy chục năm ông đã cố quên nó đi. Quả là con một người có nghị lực. Cục trưởng Mẫn đã quên được ngót bốn chục năm ròng. Công việc đòi hỏi ở ông sự nghiêm túc, chừng mực. Ấy vậy mà bây giờ ông cố dìm nó xuống mặt nước của sự lãng quên, nó lại bùng dậy mạnh hơn. Đặc biệt là cảm giác lần đầu tiên với Hoàng Yến. Ông như thấy cô co người lại, vừa sợ vừa thích thú như chú bé đùa với mèo.

            Đúng bước thứ hai mà ông vừa bước tiếp, chợt ông nhận ra một luồng gió mát thổi nhẹ. Luồng gió mang theo hương thơm của một người. Một cô gái đang lúng túng đứng trước mặt ông.

            – Chú ạ!

            Cũng từng đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều loại người, song Ánh Ngọc (tên cô gái) chưa bao giờ thấy mình bị kiềm chế như vậy. Giống như cái bóng đền mờ, bị át đi bởi ánh đèn pha cực mạnh, cô thấy mình không nghĩa lí gì cả. Đầu óc rối bời và cô cảm nhận toàn bộ phần người lí trí của cô mụ mị, tan ra thành một mớ nát bươm không hình thù. Cái thần lực mà cô đang đối diện là một ông già đẹp. Mái tóc ông đã trắng, Bản lĩnh từng trải cộng với uy quyền, khiến ông càng giản dị trước cuộc tiếp xúc. Cứ nhìn vào đôi mắt yên tĩnh của ông cũng đủ biết. Lần gặp Ngọc hôm trước, miệng ông cười nhưng mắt ông sáng lóe lên trong tích tắc nhưng vẻ mặt vẫn không chút thay đổi. Giọng ông nhỏ nhưng vang. Ông ít lời nhưng hiệu lực thật mạnh mẽ. Đó là thứ hiệu lực đích thực, hiệu lực thần tiên. Trong ông có tất cả những chuyện bí mật như chuyện ba hạt táo vàng mà ngày bé Ánh Ngọc từng nghe bà kể nhiều lần. Cắn hạt thứ nhất: có cơm ăn ngon, có áo mặc đẹp. Cắn hạt thứ hai: có cỗ xe ngựa biết bay. Cắn hạt thứ ba có biệt thự hiện lên thật xa hoa, lộng lẫy… Trong con người ông giấu tất cả bao nhiều điều thần kỳ ấy. Nhưng điều mà Ánh Ngọc và Trung (người chồng sắp cưới) đang bàn tính, kiếm tìm. Toàn bộ sự cố gắng của đôi bồ câu non này được hai chỉ vàng thì một đã tiêu xong trong các cuộc tiếp xúc, xin xỏ, cám ơn, trước ngày xin cho Trung về một tờ báo. Cũng may đó là những người tốt. Họ không lấy tiền và cũng chẳng đòi hỏi gì. Song đi xin việc chẳng lẽ chỉ vác cái mặt không và đôi cùi tay? Thế là xong một vào biên chế. Còn một người nữa!

            – Cô đánh máy được chứ!

            – Có ạ.

            – Tiếng Nga.

            – Tốt ạ.

            – Có dùng được ngoại  ngữ không?

            – Sơ sơ tiếng Anh. Nhưng tiếng Nga thì đọc được, dịch được.

            – Nào mời cô đứng dậy. Ta thử khả năng xem. Cô ngồi xuống đây.

            – Nào bắt đầu nhé. “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

            – Xong ạ.

            – Thông báo số một.

            – Xong rồi ạ.

            – Gửi các phòng ban, các đơn vị trực thuộc bộ, các công ty, các lớp nghiệp vụ…

            – Dạ thưa chú chậm lại cho một chút ạ.

            – Để góp phần cho…

            Canh… canh… canh…! Giống như tiếng búa nện khô và vang. Quả thật Ánh Ngọc đánh máy rất thành thạo. Đầu cô hơi nghiêng và đôi bàn tay múa nhịp nhàng như người đang chơi pi-a-nô. Chợt cô nhận ra rất nóng ở gáy. Cảm giác lan dần lên tai, lên má phải. Cô biết ánh mắt rất mạnh đang nhìn vào đó. Bằng sự mẫn cảm của mình, cô đoán không sai. Đầu gối cô khẽ run lên, mặc dầu cô không dám quay lại.

            – Chữ này tôi nhầm.

            Một làn gió nhẹ. Mùi đàn ông. Ông cục trưởng đứng phía sau, qua vai Ánh Ngọc chữa một chữ.

            – Tiếp nhé: Các cơ quan cần tiến hành việc củng cố tổ chức lại đội ngũ.

            Một cơn rét run không biết từ chỗ nào cứ dấy lên mỗi lúc một mạnh dần. Ánh Ngọc không làm sao ngăn chặn được. Toàn thân cô bị nấu chín hoàn toàn trong nỗi sợ hãi vô tình đó. Hình như có một khả năng lạ kỳ nào đó sai khiến đôi tay. Cô vẫn gõ thoăn thoắt chính xác, đều đặn. Còn cái đầu bất lực của cô lại thấp thoàng câu chuyện ông Tiên và ba hạt táo.

            – Chỗ này tôi muốn chữa lại.

           Trạng thái vô cảm đã chiếm lĩnh toàn diện Ánh Ngọc. Ông cục trưởng quàng hẳn lên vai cô để chữa cả một câu dài. Mỗi lần ông gạch, ông viết, lực ở tay lại đẩy má ông vào sát mái đầu thơm của Ngọc. Có nhiều lần, làn da ở mặt ông đụng vào đôi má rất xinh của cô.

           Và sau đó, một việc đã diễn ra như một điều tất nhiên. Thoạt đầu là sự lệ thuộc. Khi ý thức được đánh động thì sự việc đã đâu vào đó. Những cảm giác Ánh Ngọc chưa bao giờ gặp đã xuyên vào người cô, bùng dậy cùng một lúc với cả nỗi sợ hãi khiến cô vùng vẫy, lẫn những ngọn lửa đang được nhen nhóm nhanh, mỗi lúc cháy bùng bùng có nguy cơ không thể dập tắt được. Và rốt cuộc con mèo hoang có đôi mắt lóe sáng, tinh ranh đã giễu cợt ông chủ đạo mạo, hiền lành và chậm chạp trong cuộc săn đuổi trên đồng cỏ. Để rồi sau đó khi cuộc dạo chơi của chú mèo hoang đã mãn nguyện, người chủ đạo mạo bắt đầu ngồi khóc trước sự bất lực trông thấy của chính mình. Bao nhiêu dằn vặt đau đớn, ân hận. Muôn đời đó là thứ tình cảm cải lương. Nhưng cũng một ngàn lần khẳng định đó đích thực là người.

           Không một tiếng sụt sịt nhưng Ánh Ngọc giàn dụa nước mắt. Thành dòng, nước mắt cứ tuôn như cô vắt mình ra như vậy. Tỷ lệ thuận với thời gian cô khóc, hình như có cái gì đó đang phục hồi dần trong cô. Cái đó gần như sự can đảm, nhưng cũng chưa hẳn. Rõ ràng nỗi sợ hãi ở cô giảm hẳn. Khi cô đứng dậy, cô nói tự tin như người có của:

           – Cháu muốn tuần sau cháu sẽ có quyết định đi làm.

*

           Tổn thương. Đó là cảm giác tràn ngập một vài ngày đầu tiên. Thân thể Ánh Ngọc đã bị vơi đi vì nước mắt. Nỗi đau mất mát lặn dần vào chiều sâu. Càng ngày càng thấy cô có những câu nói táo tợn, dáng vẻ bất cần, đang vui chợt buồn thăm thẳm. Phần người hồn nhiên, trong sáng tin yêu của cô đã bị tiêu diệt trọn vẹn. Thế vào đó là sự ngờ vực, căm thù. Cô quyết đòi lại món nợ đời mà cô đã bị người ta lấy mất với một cái giá sòng phẳng.

           – Nhưng em làm sao thế?

           Lần gặp này, Trung cảm nhận dấu hiệu khác thường ở người vợ sắp cưới, anh đã nhìn thẳng vào ánh mắt cô để hỏi. Ánh Ngọc đẩy mạnh vào tay Trung, gắt gỏng:

           – Em đã bảo không sao mà lại. Anh hỏi nữa, em sẽ bỏ về ngay.

           Trung không bao giờ ngờ vực lòng thủy chung của Ánh Ngọc. Cả một thời sinh viên anh hiểu. Có nhiều lần anh đã đòi hỏi, thậm chí hôm trên bờ đê sông Hồng, anh đã dùng tới sức khỏe để mong đạt mục đích. Tất nhiên cũng có lúc anh thăm dò, song nhiều lần là mong muốn chân thành. Hầu hết đều bị từ chối dịu dàng. Có hôm còn bị cô xoa đầu diễu cợt.

           – Bé con của em. Đừng có mà vòi vĩnh nhé. Không bao giờ ăn cơm trước kẻng.

           Lần này Trung đoán sai. Linh cảm của anh chệch hướng, Ngọc hành kinh. Anh từng bị cáu vô lý vào cái ngày khỉ gió ấy nên anh biết.

           Sau khi nhận quyết định đi làm được ít ngày cũng vào buổi chiều. Ánh Ngọc trở lại căn phòng sang trọng, có lối kiến trúc uy quyền ấy. Vẻ mặt cô vẫn dịu dàng nhưng dáng đi thì tỏ vẻ ngạo mạn, bất cần. Đồng chí cục trưởng nói chuyện với cô. Hai người nói từng câu một. Thỉnh thoảng có đoạn trống.

           – Cháu thích cái này.

           Ánh Ngọc chỉ vào chiếc máy nghe nhạc.

           – Được thôi. Ta tặng cháu đấy.

           – Sao lại được thôi ạ.

           Ánh Ngọc chất vấn.

           – Được thôi có nghĩa là không có điều gì vướng mắc.

           Ánh Ngọc thích mang chiếc máy này về nhà để nghe. Chợt nhớ nếu chiếc máy này có trong nhà sẽ phải lý giải với Trung. Thế nào anh chả ngạc nhiên rồi ngờ vực? Bán nó đi là xong! Biến nó thành tiền, ném vào tiết kiệm. Chắc lúc có gia đình, nhiều việc cần phải chi dùng.

           Đời đã dạy cho Ánh Ngọc khôn ngoan nhiều. Có không còn là một cô gái thật thà nữa. Cô biết lúc nào cần nói thẳng, lúc nào cần rụt rè, e lệ, lúc nào cần tỏ ra giận dữ. Cô còn biết phấn son có thể làm cho cô đẹp lên nhiều và cách để tóc ngắn dài, xù Nhật, đầu Thái, ốp ta… có khả năng tạo cho mặt tròn lại hay dài ra, trái xoan hay bầu bĩnh. Hiệu lực của cái nhìn đôi khi cũng rất kết quả.

           Để xóa tang chứng đêm tân hôn sắp tới, một nỗi lo mơ hồ phảng phất trong lòng Ngọc. Cứ nghĩ đến đoạn chồng sẽ trải chiếc khăn tắm trắng toát lên giường đêm tân hôn, như đã từng nghe các mụ đàn bà kháo nhau, cô toát mồ hôi. Cô im lặng chờ đợi cuộc đi chơi với Trung vào tối thứ bảy. Cuối cùng, thứ bảy mà cô mong chờ đã đến. Hôm ấy cô rất hiền, ít cười ít nói. Dường như Trung kéo đi đâu, cô lặng lẽ theo sau. Trong mỗi lần đi chơi kiểu như vậy, người con trai (cả Trung và Hải, người yêu Ngọc trước đây) đều có lúc rồ dại. Họ bắng nhắng và vòi vĩnh như trẻ con. Riêng buổi tối hôm đó, dưới một gốc cây bằng lăng cô đã thả mình trôi lơ lửng mặc sức cho Trung tìm bắt. Đến chính cái lúc cô quyết giữ mình cũng đã muộn. Ngọc làm như choàng tỉnh. Cô đấm, cô cắn người yêu. Khi đã như bất lực, cô thả lỏng đôi tay mềm cho sự việc mặc nó. Sau đó thì cô khóc. Tiếng khóc rưng rức. Trung hoàn toàn hốt hoảng. Anh quỳ xuống bên Ngọc hỏi rối rít. Anh bỗng gặp nụ cười chưa bao giờ tươi trẻ như vậy trên gương mặt đẫm nước mắt. Mặc dù thấy nụ cười là lạ, song Trung không lý giải được những điều bí ẩn đã xảy ra trong lòng cô vợ sắp cưới.

           Ánh Ngọc còn tiếp tục đến với ông Mẫn sau các giờ đi làm. Con mèo hoang trong cô được nuôi lớn dần. Nó mạnh bạo và xuất hiện rất lộ liễu, không “thần hồn nát thần tính” như trước. Hơn nữa, không hẳn cô mất mát hoàn toàn trong các lần gặp gỡ sau này.  Nói cho cùng cô có thích. Dường như ông Mẫn rất từng trải. Ngọc cảm nhận được người đàn ông có tuổi này một sức mạnh bền bỉ. Ông rất thận trọng và không vội vã gì. Có thể vì ông như cơn mưa đủ khả năng thấm đẫm nước cho mặt đất khô khát này. Vả lại ông chiều Ngọc. Ông cho Ngọc chiếc máy nghe nhạc, chiếc đồng hồ phải đổi tới hai chỉ, cái nhẫn và hàng trăm ngàn. Cô móc túi ông lấy vài chục ngàn để ăn quà sáng một cách vui vẻ. Ông độ lượng với cô như con đẻ vậy. Tha thứ và chiều là hai trạng thái tình cảm ông dành cho cô. Sau nhiều lần gặp gỡ như vậy hai người vẫn xưng hô như buổi đầu.

           – Chú ạ – Lần này Ngọc thổ lộ – Cháu muốn sang cơ quan khác.

           – Đi đâu?

           – Bách hóa chẳng hạn – Du lịch cũng được.

           – Được thôi. Ta sẽ đáp ứng nguyện vọng của cháu.

           Một tuần sau, Ánh Ngọc chuyển cơ quan. Đi làm ở nơi mới vui hơn, có tiền ăn trưa. Thứ bảy tuần đó, Ánh Ngọc lại đến chỗ cục trưởng Mẫn. Theo dự định của mình, cô nhìn ông với cái nhìn suồng sã hơn.

           – Cháu sắp lấy chồng rồi đấy chú ạ.

           – Chú cảm thấy như vậy.

           – Chú có buồn không?

           – Nó là điều sẽ diễn ra, biết thế nào được.

           – Hôm cưới, cháu có nên mời chú không?

           – Tùy cháu. Song có lẽ…

           Ánh Ngọc thoáng buồn. Cái phần người đa tình ít hoặc nhiều trong cô bỗng thấy thương xót ông già. Một phần rất nhỏ đời cô đã có với ông.

           Sắp vào ngày cưới. Ánh Ngọc vùi đầu vào bao nhiêu nỗi lo toan. Cha mẹ ở quê. Nhà Trung lại nghèo. Thành thử mọi chuyện vào tay cô cả. Bố Trung về hưu với chức thiếu úy công binh. Ông bà sống ngay thật nên không bao giờ có của. Còn Trung thì đã rõ đẹp trai, thông minh, giàu lòng tự trọng và nghèo. Làm anh nhà báo càng nghèo. Tiền lương không đủ ăn và hút thuốc vặt. Đám cưới. Đó là ngày Ánh Ngọc thật xúc động.

           – Đẹp không anh?

           – Em đẹp lắm. Trong bộ quần áo cưới này với anh, em đẹp nhất Hà Nội.

           – Lại nịnh nhau đấy.

           – Em biết là anh luôn chân thành.

           Bao nhiêu là hoa hồng bạch. Rất đông bạn bè tới dự. So với Hà Nội, đám cưới được xếp loại “được”. Những ai đã biết Ngọc và Trung đều thán phục.

           – Cô cậu giỏi lắm. Có việc làm, tạo dựng được nhà cửa. Như thế xem ra thành đạt nhất trong đám bạn học đấy.

           Đừng lầm tưởng mở đầu cuộc đời như vậy mà đôi uyên ương ấy trục trặc. Trái lại họ rất hạnh phúc. Đối với Trung, Ngọc luôn luôn ngoan ngoãn. Ngoài ra, cô còn có đủ những kiến thức và thái độ từng trải cần thiết khiến cô trở thành người vợ trẻ có mẹo mực làm cho cuộc sống đẹp thêm về mặt vật chất. Cô chăm lo cho Trung đầy đủ. Sáng ra, bánh mì ấp nóng giắt trong đó miếng trứng rán. Vài trăm xôi hoặc gói mì tôm. Đêm về, sau khi tắm rửa, nằm lên giường, cô thủ thỉ lục vấn chồng.

           – Hôm nay buổi sáng anh gặp ai, anh nói gì? Anh nghĩ thế nào, anh có nhớ em không?

           Tất cả những câu hỏi cứ quấn quýt như vậy. Một tuần cô lại dỗi một lần. Cô thực hiện theo lời khuyên của một giáo sư tâm lý. Phải luôn luôn thay đổi thang bậc tình cảm. Ăn cỗ mãi cũng chán. Phải biết ăn rau. Và ăn rau xen với ăn thịt là người biết sống. Không có gì giận cô cũng giận. Cô im lặng là Trung đã cuống lên. Quả thật liệu pháp tâm lý đó đã làm cho đời sống gia đình bớt tẻ nhạt. Ánh Ngọc đã đoạn tuyệt với quá khứ. Cô răn mình không được phép ngựa quen đường cũ. Sự hồn nhiên của tuổi trẻ hoặc vì tư chất mà cô quên được chuỗi sự kiện với ông Mẫn thật.

           Ngay tháng đầu ấy, cô có thai.

*

 

           Ánh Ngọc là hiện thân của thế hệ mới. Cô rất ghét sự ân hận. Nếu nhà trường dạy cô “ân hận là cơ sở đạo đức”, thì cô là người đồng thời phỉ báng nó. Ân hận là chứng bệnh kinh niên của loài người. Vì thế, cô tự gánh chịu mọi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Cụ thể: sự việc của cô và ông Mẫn, cô đã thanh toán trong lòng sòng phẳng. Đó cái giá mà cô buộc phải trả để đi con đường tắt đến mục đích của đời mình. Cô láng máng nghĩ rằng có thể cái thai trong bụng, tác giả của nó là lần gặp cuối cùng với ông Mẫn trước ngày cưới (mười phần trăm khả năng dành cho điều này). Cô lo vậy thôi chứ cô không tin điều đó có thật. Cô mong và cô cũng tin ở điều đó.

           Lấy Trung, Ngọc biết mình sẽ nghèo. Và cũng đúng như vậy, sự đầy đủ và hạnh phúc của những ngày đầu là thứ đầy đủ giả tạo. Dần dần họ hết tiền và cũng chẳng còn thứ gì để bán. Nhà có bớt vui đi nhưng cũng không vì thế họ cãi nhau. Phần lớn tiền chỉ đủ chi dùng cho hai bữa chính. Còn sáng ra, hầu như cả hai đều nhịn.

           Trung rất ái ngại.

           – Có lẽ em phải ăn thôi. Như thế không tốt cho thời kỳ mang thai.

           – Được! Mặc em.

           Ngọc cũng chẳng sung sướng gì khi cô ăn mà Trung nhịn. Hai người không trông vào ai được nữa. Bố chồng, ông thiếu úy công binh, có thể nhờ ông làm cho cái ao, con đường, chứ kinh tế, ông còn không đủ nuôi bà. Ngọc đã nghĩ đến việc lại tới ông Mẫn. Cái cây đa tỏa bóng ấy có thể che mát cả một khoảng rộng. Ngay chiều hôm sau, cô ăn vận nghiêm chỉnh hơn, hết giờ đi làm, cô liền ghé qua “chỗ ấy”. Nhưng tiếc thay, chưa mấy ngày mà bao nhiêu đổi thay. Căn phòng của ông được quét sơn và treo tấm biển đỏ: “Kho vật tư”. Hỏi thì biết ông Mẫn đã nghỉ hưu.

           Giữa lúc đang lúng túng vì sự nghèo khó ấy thì có tin Trung có thể phải ra khỏi cơ quan báo.

           – Vì sao thế anh?

           Ánh Ngọc dịu dàng nhưng đầy lo lắng.

           Họ muốn anh chỉ là một con lừa, một người thừa hành, một thằng thiên lôi.

           – Anh còn muốn gì ở họ?

           – Chí ít anh cũng phải được tự do nghĩ, tự do viết.

           – Thôi, lý sự thì anh đúng. Nhưng anh nói cụ thể hơn em nghe.

           – Ông tổng biên tập của anh bắt anh viết một bài ca ngợi công ty X. Công ty này sản xuất thì lỗ vì hàng kém phẩm chất, không bán được. Họ dùng vốn còn lại đi buôn hàng ngoại. Vì công ty cắt tặng báo một triệu nhân ngày sắp thành lập mà ông tổng biên tập ra lệnh như vậy.

           – Anh đi chứ?

           – Tất nhiên.

           – Và anh viết đúng sự thật.

           – Tất nhiên.

           Ngọc ngẫm nghĩ một lúc. Việc này cô cảm thấy hệ trọng. Và giống như một cái máy tính điện tử, xử lý xong các thông số với thời gian mang rá gạo vào nhà, bước ra, cô khẳng định luôn:

           – Anh sai.

           – Anh đúng.

           – Anh sai. Này em hỏi: Anh ăn lương ai trả? Anh phải làm quen với xã hội hiện đại đi. Làm cho chủ nào, hết lòng với chủ đó. Một đĩa rau và một đĩa cơm thịt anh chọn gì? Chẳng lẽ anh còn dại dột như vậy, trong khi về cơ bản, ông tổng biên tập của anh đã chịu trách nhiệm.

           – Bất chấp tư cách, tự trọng, bất chấp lương tâm chứ?

           – Tư cách, tự trọng, lương tâm ư? Anh yêu ạ, đó là những tính từ thịnh hành ở thế kỷ trước.

           – Không thể nghe em được.

           – Thì đây.

           Ngọc đặt trước Trung mớ rau muống đang nhặt. Cô chỉ nói một câu:

           – Nếu anh đã đi khỏi chỗ đó, chúng ta cũng không còn rau mà ăn nữa.

           Tim Trung đau nhói. Quả thật anh đã quá xa hoa khi dùng các mỹ từ chỉ phẩm hạnh con người. Thôi! Cầu hòa! Anh rút lui ý kiến, câm lặng đi vào bàn. Nhưng quả thật, cuộc sống với sức mạnh phũ phàng của nó chẳng dễ gì giết chết được tính trung thực bẩm sinh của Trung. Anh chỉ có thể không viết bài báo đó, chứ anh không đủ khả năng tô vẽ cho nó ngược lại điều anh chứng kiến. Ác thay đợt đi lấy tài liệu này chỉ có một mình anh. Vì thế không ai viết thay anh được. Vì thế họ lại cãi nhau.

           Khi đồng chí tổng biên tập đưa quyết định đình chỉ công tác, Trung lạnh toát người. Cuối cùng thì chính anh phải nhượng bộ. Anh im lặng để bạn bè đưa anh đến nhà riêng ông tổng biên tập để xin lỗi.

           Phần sau của sự việc Ngọc không biết. Chỉ thấy Trung buồn, có lúc thất thần, thỉnh thoảng lại hát đổng lên một câu vu vơ nào đó. Từ dạo ấy Trung phất phơ như thằng chán đời.

           Đúng dịp ấy Ngọc đang bận. Cô rất ham làm ăn. Cô yêu Trung và gia đình này là cái tổ nhỏ bé ấm cúng của cô. Cô thừa nhận như vậy. Không bao giờ cô muốn có giọt nước lạnh nào rớt vào cái tổ yên ấm. Song có những phía đời mượt mà và hấp dẫn không kém. Nó kêu gọi, lôi cuốn cô như men say vậy. Đó là cuộc sống của gió. Có người bạn gái mở quán cà phê. Cô ta mời Ngọc đi làm thêm. Chỉ một tiếng bưng bê, mời chào buổi tối. Chỉ cách cái giờ của đức hạnh ba chục phút, giờ các bà mẹ dùng làm giới hạn để buộc các cô con gái yêu của mình có mặt ở nhà là Ngọc có thể cầm tiền trở về.

           – Miễn là có anh chàng nào vuốt đùi, vuốt má, cô cứ im lặng đi cho tôi nhờ là xong. Hoặc mỉm cười, xin lỗi nhẹ nhàng. Cấm cáu gắt, hoặc hẩy tay họ ra.

           Đó là tất cả điều kiện thỏa thuận như người ta đưa ra để ký hợp đồng vậy. Có hôm thấy vợ đánh phấn rất kỹ. Trung thoáng ngờ vực.

           – Em đi đâu cẩn thận vậy.

           – Tối hôm nay anh ra đó với em nhé. Ở nhà một mình cũng buồn.

           Thấy vợ hân hoan nài nỉ, Trung lặng lẽ lắc đầu. Anh cảm nhận một nỗi buồn vô cớ sâu xa và thâm trầm. Những cuộc đi như vậy Trung thấy vợ sinh động khác thường. Hình như có người đàn bà thứ hai trong cô ấy. Anh chưa nắm bắt được cụ thể, nhưng anh đã cảm thấy. Người đàn bà ấy không có mặt trong đời sống vợ chồng anh. Chỉ những lúc cô như thế này mới xuất hiện.

           Cuối năm, Ánh Ngọc sinh bé trai. Đứa bé rất kháu khỉnh. Trung mừng như điên lên vì hạnh phúc. Anh nghĩ thế, cuộc đời cam chịu của anh cũng được đền bù.

           Và bây giờ sau ba năm, đây là dòng tin cuối cùng thông báo về họ: Hai người vẫn ở chỗ cũ và như cũ. Riêng cháu bé đã lên ba tuổi mà vẫn không phát triển được. Tất nhiên cháu chưa biết đi. Nhưng có một điều rợn người là cháu vẫn giống như đứa trẻ ba tháng, bụ bẫm, trắng trẻo. Ngọc và Trung nghĩ cháu có bệnh, đưa đi khám. Nhưng tất cả các bác sĩ giỏi nhất đều khẳng định điều kiện thể chất của cháu bình thường. Nó là đứa trẻ từ ba đến năm tháng. Ngọc hét lên cãi lại bác sĩ. Nhưng y học là thứ khoa học chính xác, biết làm thế nào được!

                                                                                 Năm 1990

 

 

 

DÒNG SÔNG BIẾN ĐỘNG

I

           Tôi đã từng gặp những con người có những kỷ niệm không bao giờ kể ra. Nói như dân gian, là những câu chuyện sống để bụng, chết mang đi. Đó là những vấp váp, những lầm lỡ, hoặc những ngõ cụt mà sau đó, con người ấy đã đặt lại những bước đi cho đời mình.

 II

          Người chị dâu của tôi tên là Oanh. Ngày tôi còn học trong trường cao đẳng Sư phạm. Oanh còn là một cô bé nông thôn gầy gò nhút nhát. Cô có nước da xanh mét, hội họp vẫn giấu mình đến tận bàn cuối cùng. Toàn bộ tính tình của Oanh có thể nhận xét: Cô là một người con gái ngoan. Một cô gái vừa lễ phép vừa chăm chỉ nhưng chắc chắn có một cái gì đó không đáng kể. Cô sống có phần lẳng lặng, ít tham gia các trò chơi cũng như những cuộc tranh luận to tiếng, ồn ào, thường xảy ra trong các tốp sinh viên. Nhưng chỉ sau một tháng hè của năm học thứ nhất, từ nhà lên, Oanh đã có nhiều thay đổi. Bằng mắt cũng nhận ra Oanh cao lớn hơn, mập hơn và trắng thêm nhiều. Dường như đến lúc này tuổi dậy thì trong cơ thể người con  gái mới bừng nở. Khuôn mặt của cô ấy đầy đặn hơn trước. Đôi mắt và cái nhìn của Oanh cũng không còn vẻ thật thà và nhát sợ như trước. Cô đã có một đôi mắt đen thăm thẳm, cái nhìn ánh lên những vẻ tự tin, kiêu hành. Kỳ lạ thay có những cô gái, vẻ đẹp lại xuất hiện vừa muộn, vừa đột xuất và những đổi thay nhiều đến mức ngỡ ngàng như vậy.

            Trước đó, lớp tôi có bốn cô gái gọi là đẹp nhất. Anh em thường gọi lớp bốn cô “Tê”. Một cô là Thương. Một cô là Tâm. Một cô là Thủy. Một cô là Thanh. Vào cái lúc ấy, mọi người trong lớp vẫn còn chưa chịu thừa nhận Oanh. Hình như tuổi mười chín, ở một cô gái, vẫn chứa đựng nhiều khả năng phát triển về mặt thân thể; cho đến năm thứ ba, Oanh trở thành một cô gái đẹp hoàn chỉnh. Vào những năm ấy, cô lại biết cắt tóc ngắn đi, đua đòi ăn mặc kiểu thời trang, Oanh đã vượt xa bốn cô “Tê” của lớp. Cái tên “lớp cô Oanh” được thay cho cái tên dài ngoằng của lớp 2A Toán Lý. Họ và tên của cô gái, chẳng ai đặt, cứ nghiễm nhiên trở thành một danh từ chung như vậy.

            Có lẽ được ca ngợi nhiều, tính tự ti nhút nhát của Oanh biến mất. Cô đã trở nên tự tin cả một ít sự kiêu hãnh; tuy vậy, cô vẫn là con người xinh đẹp, lại chăm chỉ học tập, tiếng tăm về Oanh ngày càng bay xa. Những chàng trai đến thăm cô gái này đông đến mức người khác phát sốt ruột. Nhưng cô chưa chứng tỏ thân tình với ai, và chưa tiễn ai ra khỏi cửa. Nhiều bạn gái tâm sự với Oanh, cô nói cô chưa hề yêu ai cả.

III

          Khi tôi và Oanh về dạy học ở một thị trấn nhỏ xa thành phố, khu gia đình của giáo viên chỉ có một vài nhà. Các thày, các cô đa số chưa có vợ. Ngày nghỉ, khu trường vừa vắng, vừa buồn teo. Cánh trẻ chúng tôi, những ngày ấy thường dồn cục lại với nhau đi chợ, nấu ăn, chơi bời tào lao cho qua ngày.

            Từ ngày Oanh về trường này, cô kéo cái “náo động” từ trường sư phạm về ngôi trường cấp hai hẻo lánh ở thị trấn. Ngôi trường nhỏ, lại nép sau một cánh đồng, nhiều thanh niên từ xa vài chục cây số vẫn lặn lội đến đây. Nhưng lạ thay, tấm lòng cô gái xinh đẹp như Oanh vẫn lặng tờ như mặt hồ lặng sóng. Sau một người đến chơi, Oanh lại kể bô bô ra tất cả cho chúng tôi nghe. Lúc đầu mọi người ngờ vực. Có khi Oanh nói dối cũng nên. Mãi sau đó mấy cô giáo cùng tuổi với Oanh cho biết cô chê những đối thủ đến với mình và không chấp nhận ai. Trong số họ, có người là lái xe, có người lái máy cày, có anh là thợ cơ khí. Chính lúc đó tôi mới biết Oanh là người rất kén chọn.

            Vào dịp ấy, anh tôi có vào tận trường tôi dạy học để thăm em. Ai trong số bạn dạy học của tôi cũng đều biết anh trai tôi là một phó tiến sĩ về máy. Sau khi về nước, anh vào quân đội và đang công tác tại một cục kỹ thuật của Quân chủng Hải quân. Thời gian ấy, có một chiếc tàu biển trọng tải lớn đang chạy ngoài khơi, có ba máy tự nhiên hỏng mất hai. Đơn vị không có thợ bậc cao, họ đành đưa xe mời anh tôi xuống tàu ra tận ngoài biển sửa chữa. Anh vào đột ngột khiến bạn bè tôi, nhất là các cô giáo bỏ chạy tán loạn. Họ xấu hổ vì sợ anh tôi trông thấy cảnh các cô giáo nấu cơm độn sắn, lại ăn rau lang vặt ngoài vườn. Một lúc sau, khi đã dọn hết những thứ “cây nhà lá vườn” bày la liệt khắp nhà, những bạn trai và bạn gái của tôi mới mặc áo, trở lại chơi với anh tôi. Mọi người nhiệt tình đến cuống lên, còn anh tôi, lúc nào cũng có vẻ bình thản như lạnh nhạt và nghĩ tận đâu đó. Ai hỏi câu gì, Hoàng trả lời câu đó thật hờ hững. Cái vẻ bề ngoài đó khiến nhiều người không ưa Hoàng. Chỉ có tôi mới biết đấy chỉ là cá tính riêng của anh. Chứ thực ra, Hoàng không hề xem thường ai, và nếu đã quen biết, tính anh cũng rất đầm ấm.

            Chúng tôi mời anh ở lại ăn cơm. Anh không nói gì. Bạn bè tôi nhận phần đi chợ. Một hai người cùng tôi ở lại làm những công việc vặt. Trong lúc tôi rửa lại toàn bộ xoong nồi đã lâu không lau chùi gì, cáu đen lại, Oanh dọn dẹp qua nhà cửa và đun nước. Tôi nghe Hoàng nói chuyện trên nhà câu được câu chăng. Chốc lát, tôi lại nghe tiếng Oanh cười giòn tan.

            Tôi chẻ củi dưới bếp, Oanh mang bộ ấm chén xuống đánh. Cô buột miệng chê:

            – Anh trai cậu trông buồn cười nhỉ.

            – Buồn cười là thế nào?

            – Ai mà lại ít nói đến thế? Mà sao trông có vẻ ít tuổi hơn cậu.

            Oanh nhận xét đúng. Là anh tôi, nhưng Hoàng có trẻ hơn. Tuy cùng một cha một mẹ, nhưng Hoàng lại trắng và đẹp như mẹ tôi, còn tôi lại đen đủi và giống bố tôi. Thoạt trông, ai cũng bảo tôi là anh của Hoàng thật. Còn ít nói, đó là cố tật từ nhỏ của Hoàng. Vui hay buồn, Hoàng vẫn cứ im ỉm trong lòng, ít khi kêu ca. Oanh lên nhà và vụt trở lại bếp. Lần này cô lại chê:

            Con trai gì mà nhát thế. Chắc ngày xưa đi học cũng hay bị dọa lắm.

            – Biết thế nào là nhát?

            Tôi cười và Oanh cũng cười theo. Tôi không hề chú ý đến thái độ cởi mở hơi quá của Oanh. Lần này cô ngồi sát vào tôi. Tôi còn cảm thấy cả mùi thơm thoang thoảng trên tóc, trên áo của Oanh. Cô cười rúc rích, thú vị riêng với mình một chuyện gì đó. Lần thứ ba cô chê Hoàng:

            – Không biết có cái gì hấp dẫn trong cuốn sách toán cấp hai ấy mà xem rất kỹ?

            – Tính anh ấy thế đấy. Đến chỗ người lạ, cứ vo lại một chỗ như vậy.

            Tôi và Oanh đi lên nhà. Tự nhiên, Oanh rất muốn trêu anh tôi. Cô muốn bắt anh tôi phải đứng dậy và làm việc như mọi người. Không ai hiểu ý cô cả, chỉ biết cô thích làm như vậy. Hai cánh tay trắng ngần của cô bôi xà phòng trắng xóa, đến trước thùng nước, cô gọi đích danh:

            Anh Hoàng, giúp em một tay.

            Hoàng đứng bật dậy nhanh như một cái lò xo. Anh múc từng gáo nước rất gọn giội đúng vào hai cánh tay trần rất đẹp của Oanh. Anh định thôi, Oanh bèn thúc:

            – Nữa.

            Tôi thoáng có ý nghĩ: Hình như Oanh muốn được khoe đôi cánh tay của mình. Oanh vừa đứng dậy, Hoàng đã trở lại bàn ngồi nhặt rau thơm cô hái về trong rổ. Oanh hoàn toàn thích thú với cái cử chỉ vừa rồi của mình. Buổi sáng hôm đó, cô sai phái Hoàng làm hết việc này đến việc khác. Hai người vừa làm vừa nói chuyện. Tôi thấy có lúc mặt Hoàng đỏ ửng. Còn Oanh có những lúc cô cười, tôi chưa được thấy cô cười như vậy bao giờ. Cái cười ấy thật lạ, nó ẩn kín trong mỗi con người, lúc nào đó mới bộc lộ.

            Tôi vừa cảm thấy một cái gì đó không bình thường trong quan hệ giữa Oanh và anh tôi, thì Hoàng đã đến thăm trường lần thứ hai. Lần này anh đến chủ yếu là chơi với Oanh, sau mới đến lý do một thằng em trai. Lúc đó tôi mới biết rõ thì ra hai người đã yêu nhau thật. Anh em bạn bè tôi ai cũng mừng cho Hoàng.

            Những người quen biết đều khen Oanh và Hoàng vừa đôi phải lứa. Họ cân xứng với nhau về nhiều mặt. Riêng tôi mừng cho Hoàng thật, Oanh hoàn toàn là một cô gái tốt, nhưng tôi vẫn e một điều: Hình như tính cách của Oanh hơi quá mạnh. Còn Hoàng thì lại nhút nhát quá. Đấy chỉ là một ý nghĩ rất nhỏ gợn lên trong tôi. Tình yêu của Hoàng và Oanh vẫn mãnh liệt đến mức bất chấp những sự ngăn cản nếu có. Mùa hè ấy Oanh theo Hoàng đi Đồ Sơn. Anh còn đưa Oanh đến cả những đơn vị tàu, nơi anh mở lớp bồi dưỡng về máy cho các cán bộ kỹ thuật.

            Từ đó, giữa tôi và Oanh ngoài tình bạn ra còn phảng phất tình cảm gia đình. Oanh tập gọi tôi bằng chú một cách ngượng ngùng. Tôi cảm thấy Oanh hạnh phúc một cách mỹ mãn. Tôi thấy cô như yêu cuộc đời này hơn, trẻ hơn và đẹp thêm ra. Còn Hoàng, sau mỗi chuyến đi biển về, anh đều tạt vào trường. Tình yêu này có phần cảm hóa anh tôi thì phải. Hoàng trở nên hoạt bát hơn, không ngơ ngác trước cuộc đời như trước đây. Sau mỗi chuyến đi ngoài khơi trở về, anh có đen thêm một chút nhưng rất vui vẻ. Người chàng rể tương lai của trường này rất được mọi người kính trọng, lý do cũng đơn giản thôi. Một người có học vị cao như anh, lại ở ngay sát bên cạnh họ, không xa lạ gì. Mọi người quý anh với một lòng ngưỡng mộ rất chân thành. Vả chăng, anh cũng là người biết sống với kẻ trên kẻ dưới, bình dị như họ. Chẳng bao lâu anh bỗng trở thành người khách thân thiết của các giáo viên trong trường.

            Tôi nhớ mãi đám cưới của hai người tổ chức ngay tại văn phòng nhà trường. Theo tôi, đám cưới không to, không tốn tiền, nhưng rất cầu kỳ và công phu. Oanh nêu ra một yêu cầu: mọi đồ đạc cũng như những trang trí trong ngày cưới đều thống nhất một màu trắng toát. Hai người về nhà một tháng để sửa soạn. Bạn bè của tôi và Oanh rất nhiệt tình giúp đỡ. Có thứ thì Oanh và Hoàng trực tiếp lo. Có thứ bạn bè tôi chạy giúp. Chúng tôi căng tấm phông trắng toát lên che nắng. Bên dưới, từ khăn trải bàn, ri đô, hàng chữ kẻ, cho đến những bông hoa dơn, hoa hồng đều một màu trắng rất dịu và thanh bạch. Mười mấy chiếc lọ hoa đặt trên tất cả các bàn tiếp khách, chỉ lẫn có một cái màu xanh, Oanh bắt bạn bè phải đổi cho bằng được. Hoàng chiều tất cả những ý muốn đó của Oanh. Tôi còn cảm thất anh tỏ ra thích thú. Lúc đầu, tôi cho là rởm đời. Nhưng sau khi bày biện đâu vào đó, tôi mới nhận thất cái hay, cái độc đáo của màu sắc này. Khách chỉ cần bước chân vào khu vực trang trí, buộc lòng phải thốt lên một tiếng ngạc nhiên, Khi tuyên bố làm lễ, Oanh và Hoàng cũng vận những bộ đồ trắng phẳng phiu và sạch sẽ. Đám cưới của họ có tiếng vang rất sâu trong vùng.

            Ở lại trường có ba ngày, đôi trai gái này về thành phố, sau đó đi Đồ Sơn rồi cuối cùng mới về quê. Tuần trăng mật khiến Hoàng và Oanh càng yêu nhau hơn. Oanh cảm nhận hạnh phúc của mình từng ngày một. Ở trường, ban giám hiệu cho họ một căn phòng rộng trang trí giản dị, trang nhã. Hoàng thường từ thành phố lui tới đó. Những ngày này anh đã trở thành một con người khác trước. Mất đi cái vẻ bề ngoài lãnh đạm, suy tư, anh trở nên cởi mở, tươi tắn. Thời gian trôi vèo qua và hai người đã có một đứa con gái. Cháu tên là Hoàng Anh.

IV

Ngày ấy, khu gia đình giáo viên mỗi ngày một thêm đông đúc. Những căn nhà cứ mọc thêm ra, đông đúc như một xóm công chức. Các chàng rể ở nhiều ngành, nhiều nghề, những ngày lễ, tập trung về rất đông vui. Vì yêu quý Hoàng, mọi người ra vào nhà anh như một trạm khách. Vô tình, mái hiên nhà Hoàng bỗng trở thành cái trụ sở tụ tập, người ta đem cả rượu, cả trà tới ngồi thâu đêm bên nhau đàm luận đủ mọi thứ trên đời. Anh Tảo, chồng cô giáo viên dạy cấp một, thân Hoàng gần như là không rời xa được.

Hai người rất khác nhau về nhiều mặt: Nếu Hoàng có học vị phó tiến sĩ thì Tảo chỉ mới học hết lớp bốn. Anh đi bộ đội, bị thương rồi về làm công nhân kỹ thuật gạch tại xí nghiệp gạch ngói nọ. Nếu Hoàng không bao giờ nói nặng lời với vợ thì Tảo rất khác xa. Mới cưới cô Miên được năm năm, họ đã có tới ba con. Cô Miên luộm thuộm. Chỉ một lý do đó, cũng đủ để hai vợ chồng to tiếng, hàng xóm biết phải can ngăn. Nhưng không phải họ không yêu nhau đâu, chuyện đó chỉ xảy ra từng lúc một. Còn có nhiều khi, hai người đùa cợt, cấu chí nhau, cười như trẻ con trong nhà. Đã đôi ba lần Tảo đánh vợ. Cô Miên kêu to, ban giám hiệu nhà trường phải xuống gặp Tảo để có ý kiến. Hễ đi làm thì thôi, về lại thấy Tảo quanh quẩn ở nhà Hoàng. Tình thân của Tảo cũng là một trong số người tạo dựng nên những huyền thoại xung quanh Hoàng.

Chuyện ngày Hoàng đi thi đại học. Sự thật, bài của anh chỉ làm đúng 4/5. Nhưng giáo viên chấm nhầm. Hoàng không đủ điểm vào đại học. Anh có làm đơn xin phúc tra lại bài, Hội đồng thi sau khi chấm lại bài thì đã xác định nhầm bài của Hoàng mất năm điểm. Đáng lẽ Hoàng chỉ đủ điểm để vào đại học trong nước nhưng do ưu tiên bộ đội, đảng viên, anh được ra nước ngoài học tập.

Nhưng câu chuyện lưu truyền trong mọi người lại được kể: “Hoàng đi thi, hôm báo điểm, anh không đủ tiêu chuẩn vào đại học. Anh lập tức viết đơn tố cáo hội đồng thi. Người ta buộc lòng phải chấm lại. Trong ba giáo viên tham gia phúc khảo, hai người vẫn giữ quan điểm chấm bài như cũ là không sai. Có một ông giáo giỏi hơn hai người kia, sau lúc im lặng suy nghĩ, đã phát hiện ra một phương pháp giải độc đáo. Thế là Hoàng được số điểm cao nhất, thừa tiêu chuẩn đi nước ngoài…”.

Tảo còn rất thân với Oanh. Đôi khi việc nhà anh bỏ mặc vợ và ba đứa con bò dưới đất, nhưng vẫn bổ củi hay làm giúp một việc gì đó cho Oanh. Tảo rất hay nhắc đi nhắc lại câu: “Làm thằng người như Hoàng cũng đáng!”. Đó là lời kêu ca về mình của Tảo.

Oanh an ủi Tảo, mỗi người một việc biết đâu được? Nhưng chính những lời nói thật thà của người đàn ông ít được học này, vừa làm cho Oanh thương Tảo vừa cảm thấy kiêu hãnh về chồng mình. Xóm giáo viên này đã có tới mất chục chàng rể, mà chỉ có bốn người là kỹ sư. Nhiều lần sự so sánh ấy cứ hiện lên trong suy nghĩ của cô. Nếu cái tủ sách toàn những tài liệu về tàu biển, về máy móc bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga kia, Hoàng thu thập để xem và nghiên cứu thêm mỗi lúc sử dụng nó, Hoàng vẫn phải cần đến những tập từ điển dày cộp ngẫm nghĩ tra cứu, nhọc nhằn nhỏ từng giọt mồ hôi mới thấu hiểu được giá trị của từng ý từng câu, thì ngược lại. Oanh bế con đứng bên ngoài và nghĩ: cả trường này không ai có cái tủ sách như nhà mình. Bạn bè của Hoàng cũng đem lại niềm tự hào cho Oanh. Đa số trong họ là những cán bộ khoa học có bằng cấp và học vị cao. Một hai người trong số đó cũng có lần nghe tiếng thông qua những công trình nghiên cứu của họ trên sách báo.

Riêng bé Hoàng Anh càng lớn càng xinh đẹp. Có lẽ thừa hưởng di truyền của bố, cháu có những biểu hiện thông minh rất sớm. Tuy mới hai tuổi, vừa đi vững và tập nói bập bẹ, cháu đã có trí nhớ rất khá. Tôi đã từng bế cháu đi và giới thiệu một lúc cả chục tên đồ đạc. Một tiếng sau hỏi lại cháu cái vật ấy để đâu, sau một lúc ngơ ngác, cháu chỉ tay bế nó đi, nó sẽ chỉ rất đúng tên đồ đạc đã giới thiệu.

Mỗi lần đi công tác về, Hoàng lại đưa vợ  và con đi tắm  biển. Cả ba mặc quần áo tắm đi trên cát. Màu xanh thẳm của biển, mặt trời đỏ rực sắp tắt thành gió mạnh, giây phút ấy con người như thoát khỏi cõi trần tục, chan hòa vào thiên nhiên đẹp một cách hùng vĩ. Bé Hoàng Anh giẫm từng bước chân bé nhỏ trên cát. Sóng đuổi nó và nó chạy, cười khanh khách, Sóng rút nó lại chạy theo, cứ thế, nó đuổi sóng, sóng đuổi nó, vợ chống Hoàng ngắm con, giây phút ấy là cực điểm của hạnh phúc. Thường những lúc đó, hai người không chịu đựng nổi, họ ập vào lòng nhau và những cái hôn nóng bỏng.

Đó là chặng đời có thật của Hoàng, nhưng lại đẹp như một ảo tưởng.

V

          Mở đầu cho câu chuyện rặc rối này phải kể đến sự ra đi của anh Tảo, chồng cô giáo Miên. Sau một cuộc cãi nhau tự nhiên thấy anh Tảo mất hút. Anh đi một ngày, hai ngày, rồi không thấy về nữa. Nghe nói anh Tảo lấy tiền của chị Miên giấu trong thùng gạo để đi uống rượu. Khi thấy mất tiền, chị Miên hỏi, anh Tảo chối phăng. Chị Tảo phải khóc. Nhất là khi có giấy bắt buộc thôi việc của xí nghiệp gạch, chị Miên càng đau đớn, khóc òa lên. Người ta phỏng đoán có khi anh Tảo đi uống rượu đêm, bị kẻ cướp giết. Lại có lời đồn đại có khi anh Tảo bị tai nạn giao thông nặng đến mức không nhận ra người đó là ai. Toàn những tiếng vọng ngại ngùng và khủng khiếp cả. Chị Tảo muốn bứt con ra đi tìm chồng. Nhưng một nách ba đứa trẻ đều lau nhau như những cái vò nước biết gửi ai bây giờ? Ở trường, cô giáo Miên mỗi ngày một khó khăn hơn. Mất suất gạo và suất lương của Tảo, chất lượng bữa ăn trong cái gia đình nhỏ bé ấy khó khăn tới mức báo động. Hội đồng nhà trường phải họp lại, kêu gọi các thày, cô quyên góp giúp đỡ cô Miên. Ai cũng thương cảm chị. Còn nghĩ về Tảo, thày giáo nào cũng thấy tội nghiệp. Rõ thật con người chân thật, sinh ra và lớn lên trên đồng cát tuy ít được học hành, đôi lúc có nổi khùng với vợ con, nhưng anh có biết nói dối ai bao giờ? Một người nào đó cần giúp việc gì, anh đến nhà, làm rất nhiệt tình, chu đáo. Thế mới biết sự đời có nhiều biến cố!

            Có ai ngờ đâu, một hôm, sau ba tháng đi biệt như người lặn xuống nước, anh Tảo bỗng nhiên xuất hiện như từ trên trời rơi xuống. Nhưng trông anh lạ hoắc: tóc dài, quần loe. Anh mặc chiếc áo hoa rất to. Hẳn là do mái tóc dài buông xuống vai, mặt Tảo bỗng nhiên tròn ra và trông như tay chơi. Anh cười toe toét khi đi vào sân trường. Theo sau Tảo, hai xe xích lô chẳng biết thồ thứ gì, phủ bạt kín mít.

            Sớm hôm sau, toàn trường đã biết câu chuyện về sự mất tích của Tảo: Anh đang đi bỗng gặp một người bạn thân lái xe đang chạy trên đường. Chiếc ô tô phanh két sát chiếc xe đạp của Tảo, khiến anh chàng nổi khùng. Thì ra đó là tay bạn chí cốt từ hồi đánh nhau ở miền Đông Nam Bộ. Người bạn ấy rủ rê Tảo bán xe đi miền Nam kiếm chác. Nghe bùi tai, Tảo liền vác xe đạp ném lên thùng ô tô và ra đi, không một mẩu tin tức để lại. Vào một thành phố miền Trung, chiếc xe đạp của Tảo bán vội được bảy trăm, mua được ít hàng đem vào thành phố Hồ Chí Minh. Cả vốn lẫn lãi ném dọc đường đi sắp hết, may sao trong đó Tảo lại gặp một người làng đi Nam từ năm 1954. Hỏi kỹ thì ra là ông bác ruột. Ông này có một cửa hàng buôn bán máy chụp hình ở giữa thành phố. Tảo ở lại chạy việc cho ông. Và như Tảo nói, tuy ở trong đó đầy đủ thật, nhưng không chịu nổi vì nhớ con quá. Người ta không biết Tảo có nhiều tiền hay ít tiền, chỉ vài tháng sau, anh xin một rẻo đất riêng dựng một ngôi nhà ba gian ở rìa cùng của xóm giáo viên. Tảo không hề nhắc gì đến xí nghiệp gạch, cũng như không hề đả động đến việc bắt buộc thôi việc. Anh xoay ra nuôi lợn. Cách nuôi lợn không biết học được ở đâu, cũng lạ lùng như sự thay đổi của anh vậy. Anh không nuôi lợn nhỏ và cũng không nuôi đến sáu, bảy mươi cân. Anh ra chợ tìm mua lợn choai choai, chủ yếu phải xem mặt của người chủ hàng. Nhà đó là loại nhà có vốn hay không, và quá trình con lợn này được ăn ở chế độ nào. Sau đó, Tảo mới xem con lợn và mua lại. Anh lý sự: con người chóng lớn nhất ở tuổi mười bốn đến hai mươi, thì con lợn cũng trưởng thành rất nhanh ở tầm từ hai chục cân trở đi. Tảo đem con giống ấy về chỉ vỗ đến bốn lăm, năm mươi cân thì bán ngay. Nếu nuôi tiếp nhất định sẽ lãi không cao. Bên cạnh đó, Tảo rào thật kín nhà, ban đêm nấu rượu. Thành phẩm mang đổ cho các quán bán hàng, thứ phẩm, hoặc bã rượu anh đem cho lợn ăn. Chăm sóc, nuôi nấng, con lợn bắt về hai chục cân, thường sau hơn một tháng đã có dăm sáu mươi cân suất chuồng. Chẳng bao lâu, Tảo bỗng nhiên giàu như nước lũ lên. Chị Miên bây giờ không còn ăn mặc luộm thuộm. Đi đâu vội vội vàng vàng như trước. Riêng Tảo, có vẻ bận bịu hơn. Thường thường anh hay đi đâu đó, ít ở nhà. Người ta không còn thấy anh la cà ở nhà Hoàng nữa. Anh vẫn rất quý trọng Hoàng. Nhưng mỗi lúc muốn chơi với Hoàng, Tảo sai vợ anh sang tận nhà mời mọc cẩn thận.

            Xóm giáo viên kể từ đó bắt đầu khác trước. Những đêm tụ tập ở nhà Hoàng, người ta không bàn chuyện văn học, toán học, thời sự hay chiến tranh nữa. Những câu chuyện kể ra thường là truyện một thằng nào đó có cách làm ăn độc đáo mà người kể nghe được. Có người do buôn gỗ mà bỗng nhiên trở nên giàu có. Có anh bỏ cả trăm ngàn mua luồng nứa về làm những cái hộp thả dưới nước để nuôi cá lồng. Một lồng thả khoảng một ngàn con giống. Trên bè có bốn lồng. Vị chi là bốn ngàn giống. Sau một năm nuôi dưỡng tốt, chú trắm hay trôi ấy có thể cho từ một cân đến một cân bảy. Vị chi cả bè một năm cho khoảng năm tấn cá. Mỗi một cân lấy rẻ bốn mươi đồng. Đúng là tiền cho bị cũng không hết.

            Hoàng nghe những câu chuyện ấy cho vui chứ anh biết đó là những chuyện ngoại đạo của anh. Anh rất mừng bởi những người dân mình bây giờ bắt đầu hiểu biết làm ăn tính toán, biết nhìn và tin tưởng vào chính đôi bàn tay của mình. Có lẽ do học môn khoa học kỹ thuật, anh nhìn cuộc sống với một cái nhìn điềm tĩnh hơn, sâu lắng hơn. Đã từ lâu, Hoàng cũng đã lao động cật lực bằng trí tuệ và đôi bàn tay của mình để cải thiện đời sống. Anh viết sách khoa học kỹ thuật, đi giảng bài, viết báo cáo ngắn, và nhiều hợp đồng về cải tiến, chế tạo các chi tiết máy móc. Có lúc anh đem về cho Oanh một vài ngàn có lúc một vài trăm, nhiều khi cũng chẳng có một đồng nào trong túi.

            Những ngày này, Oanh như mang sự sốt ruột từ bên ngoài vào nhà. Đó là thời gian cô sống có vẻ bất ổn. Lúc Oanh rất vui vẻ khoe với chồng đã tìm được việc làm thêm. Lúc Oanh ỉu xìu vì một cản trở nào đó. Vốn là cô gái thông minh, dạy toán giỏi có tiếng, Oanh tham gia dạy thêm giờ ở những lớp do nhà trường tổ chức. Học sinh đi học rất đông. Về thu nhập thêm hàng tháng có vẻ khá hơn. Nhà vừa có tiền chi thêm cho ăn uống, vừa có thể mua cho Hoàng Anh một vài bộ quần áo. Chẳng được bao lâu, những lớp dạy thêm buổi chiều, các em học sinh đi học rất ít. Oanh phàn nàn, chế độ khoán sản đã kéo phần đông học sinh ra đấy. Nhà trường phải đóng cửa những lớp học ngoài giờ vì lớp nào cũng chỉ còn dăm sáu học sinh theo đến cùng.

            Hoàng xin cơ quan về nhà đọc tài liệu và nghiên cứu. Anh muốn xem lại tất cả những cơ cấu ly hợp của máy tàu biển thuộc các loại trọng tải. Muốn có một kiến thức tổng hợp về chi tiết máy, anh cần phải xem cả tàu của các nước xã hội chủ nghĩa, và tàu của các nước tư bản. Sách kỹ thuật tàu biển của nước ngoài phần lớn in bằng tiếng Anh lại là thứ ngoại ngữ Hoàng sử dụng vất vả nhất. Khi gặp phải những chữ đa nghĩa, tìm nội dung bằng tiếng Việt rất khó. Có khi cả ngày, anh chỉ xem được chục trang sách, thế mà có đoạn cũng chưa sáng ý lắm. Hoàng đang có ý định cải tiến van một chiều trong ly hợp thành van đóng mở thỉnh thoảng vẫn bị kẹt. Muốn loại trừ khả năng đó, Hoàng muốn thay đổi lại hình dáng, cũng như bố trí kết cấu. Sau bao nhiêu ngày xem xét hàng chục loại tàu của Liên Xô, của Nhật, của Mỹ, anh đã cảm thấy một mô hình van mới. Anh chưa tạo ra được hình dáng cụ thể của nó nhưng một nguyên lý hoạt động tối ưu hơn đã mờ mờ hình thành.

            Anh vẫn ngồi thôi miên trên những trang sách thì Oanh, lúc đó vẫn chưa ngủ, cô vật hết bên này giường sang bên kia giường. Cô chờ anh để có một chuyện muốn bàn với chồng.

            Chờ lâu, sốt ruột, cô đứng dậy, đặt tay lên đầu Hoàng. Hoàng ngắm vợ từ đầu đến chân mỉm cười. Anh kéo tay vợ, hôn rồi lại cúi xuống bàn làm việc.

            – Anh!

            – Cái gì em?

            – Hay ta nuôi lợn?

            – Sao không mở lớp dạy tiếp?

            – Anh chẳng hiểu gì cả. Bây giờ chẳng ai muốn dạy thêm đâu. Ngoài thời gian lên lớp buổi sáng ra, bọn chúng nó đứa thì nuôi lợn, đứa thì nuôi vịt đẻ. Anh Hải dạy vật lý đấy. Anh ấy mua sáu con chó làm cũi để nuôi kia kìa.

            Hoàng nhìn vợ lặng thinh. Anh có cảm giác mọi người đã nhao ra khỏi nghề nghiệp chính của mình. Anh bỏ bút, đứng dậy vươn vai suy nghĩ mung lung.

            Sớm hôm sau gặp Miên, Oanh nói cho Miên nghe, Miên dục:

            – Kệ anh Hoàng. Cô cứ mua lợn về mà nuôi.

            Hai giờ dạy toán xong, còn sớm Oanh đã chạy ra chợ. Cô nhờ chị Hồng dạy văn đi chọn lợn hộ. Trưa hôm ấy giữa sân nhà Hoàng, con lợn trong rọ thấy đông người đến xem, nó giãy lên trong rọ và kêu eng éc như bị cắt tiết. Nhiều người đang dở công việc, chạy vào sân nhà Oanh. Chắc chỉ trừ những thày giáo, cô giáo đang dạy dở trên lớp là không có mặt. Ai xem cũng khen Oanh mát tay mua lợn đẹp, lại rẻ. Trưa hôm đó, Hoàng làm cho Oanh một cái chuồng lợn nhỏ xinh xắn. Hoàng cũng như Oanh rất chịu khó chăm chút con lợn. Con giống ấy lớn nhanh như thổi. Càng to, da dẻ con lợn càng hồng hào. Oanh thích con lợn đến mức một đêm chị nằm mơ thấy con lợn bị rắn hổ mang đuổi, kêu ầm ĩ. Hoàng mới đi nằm, chưa ngủ. Oanh vùng dạy bắt Hoàng châm đèn ra chuồng lợn cho bằng được. Nhưng khi hai vợ chồng ra soi kỹ chuồng không thấy một con vật nào cả. Con lợn đang nằm ngủ say, ngáy o e, tận góc chuồng có một chú cóc to thấy đèn quay đầu lại chớp nhìn.

            Người ta bảo không phải ai nuôi lợn cũng chóng to chóng béo. Oanh nuôi đến tháng thứ tư, con lợn đốc chứng không làm sao lớn được. Các cô giáo trong khu gia đình bày Oanh rước người đến mua. Oanh phải làm như vậy. Bán xong, Hồng, Miên, Oanh và các cô khác xúm vào tính toán. Hóa ra trừ tiền giống, tiền cám, tiền mua lợn, sau ba tháng nuôi dưỡng chỉ lãi được bốn trăm đồng.

            Oanh nẫu cả ruột gan ca cẩm. Hoàng gắt vợ:

            – Anh bảo em rồi. Đi dạy thêm thì không dạy. Vừa có lợi cho các em, vừa có thể thu nhập được ít nhiều. Làm nghề nào phải ăn nghề ấy chứ lại!

            – Đúng anh chẳng hiểu gì. Nhà trường không muốn mở lớp vì chẳng có ai học cả.

            – Tại cách tổ chức lớp ấy. Lớp còn sáu người cũng dạy. Miễn là dạy cho tốt, cho nghiêm túc. Từ con số sáu sẽ có lúc nhân lên gấp ba, gấp bốn lên chứ! Bà con làng xóm không ai không muốn con mình học thật giỏi cả?

            Oanh thôi không nói chuyện với chồng nữa. Cô coi anh như người không biết gì chuyện ở trường này. Cô bỏ sang nhà cô Hồng bên cạnh. Chuyện của phụ nữ hấp dẫn hơn.

            Xóm giáo viên ngoài giờ lên lớp ra, các cô xoay ra làm thêm. Họ bắt trước nhau nổi lên như những phong trào. Sau một năm nuôi lợn, biết vừa vất vả lại ít lãi, mọi người lại quay ra nuôi gà, gà rù, họ lại nuôi vịt đẻ, vịt cũng chết dịch, họ quay ra nuôi lợn. Qua các cô thì thào, cô giáo Thanh đã mở quán nước ngay trong nhà. Cô mang bố lên, lấy danh nghĩa bố già mở một cái cửa sổ, bên trong đặt vài lọ thủy tinh kẹo, ít gói chè gói thuốc, nải chuối. Dư luận đến tai ban giám hiệu. Nhà trường phải gọi cô Thanh lên đả thông tư tưởng.

            – Anh!

            – Cái gì đó em?

            – Hay là ta đưa mẹ lên?

            – Để làm gì?

            – Để mẹ đi chợ, buôn bán rau cỏ vậy.

            – Không!

            Hoàng gắt lên. Dạo này bắt đầu thấy anh đôi lúc gắt Oanh. Những lần đầu, Oanh còn khóc. Nhưng bây giờ, hoặc Oanh đã quen nên đôi lúc Oanh cũng cự lại chồng. Tuy không có thắc mắc lớn, nhưng có lúc, họ không hiểu được nhau như mỗi người nói một thứ ngôn ngữ. Hoàng nói với vợ:

            – Chúng ta còn lương tâm và danh dự nữa chứ!

            – Lương tâm! Danh dự!

            – Chứ sao nữa!

            – Hão!

            Tính tình Hoàng vẫn là con người điềm đạm. Anh ngồi xuống sát vợ. Với một động tác rất đàn bà, Oanh quay ngoắt đi. Hoàng lại nói:

            – Anh chưa bao giờ là con người hão huyền cả. Chỉ có em, là con người chạy từ giá trị giả này đến giá trị giả khác. Hão huyền quá thì chết, mà thực dụng quá cũng chẳng bao giờ có hạnh phúc.

            Oanh lại đứng dậy sang nhà cô Miên. Cô cho Hoàng không hiểu mình, và không hiểu đời sống ngày hôm nay. Đó là lý do mỗi lúc đem chuyện làm ăn ra bàn bạc với Hoàng. Oanh lại bị chặn lại như có bức tường vô hình đứng sững trước lối đi. Những ngày đầu Oanh còn nể sợ Hoàng. Nghe Hoàng phân giải cuối cùng Oanh nghe còn thấy có lý. Nhưng càng ngày Oanh càng thấy Hoàng bảo thủ. Ra đi thì chớ, trở về nhà, Hoàng lại cắm đầu vào sách. Đã có giây phút Oanh ngờ vực chồng. Không biết anh viết cái gì mà viết ghê thế. Trong khi đó mọi người xung quanh, cũng như dòng đời bên ngoài, người ta quay cuồng làm ăn như dòng nước chảy xiết. Cưới nhau mấy năm trời, hai người mới mua được một cái tủ gỗ mộc. Năm nay bé Hoàng Anh chưa có bộ quần áo mới nào. Mà bữa ăn hàng ngày, mỗi lúc một khô khan thêm.

            Đã có những ngày Oanh sốt ruột muốn bàn với chồng một dự định nào đó. Cô đi quanh quẩn cạnh bàn làm việc của Hoàng, lòng sôi lên biết bao dự kiến, kế hoạch, lo toan, nhưng thấy anh quá chăm chú làm việc Oanh sợ, và không dám hé miệng nói một lời nào. Cô cứ ngồi trong phòng chờ Hoàng, nhưng từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, anh vẫn chìm đắm trong cái công việc xa lạ của anh. Oanh có cảm giác uất ức, chán ngán đến ứa nước mắt. Cô muốn đưa mẹ lên, mở một quán nho nhỏ. Mình là giáo viên, mình không đứng ra làm việc đó. Bà mẹ đứng trên danh nghĩa của bà để làm, nhà trường chẳng có cớ gì để kiểm điểm. Thế mà…

            Oanh bước ra khỏi nhà, trong lòng hoang mang. Oanh đưa bé Hoàng Anh đi bước một trên con đường đất trắng xóa. Bước chân vô tình cứ dẫn Oanh đến nhà cô Miên. Không biết từ ngày nào, mỗi lúc vợ chồng có những va chạm nho nhỏ, Oanh lại sang nhà Miên. Dường như ở đó dù là chỉ được nghe dăm ba câu chuyện, cô vẫn cảm thấy dễ chịu như người được an ủi.

            Để đón khách vào chơi, anh Tảo kê hẳn một bộ bàn ghế ra giữa sân. Nếu không có khách đàn ông, thì chị Miên cùng các chị ngồi ở bộ bàn ghế đó. Có khách đàn ông họ lại rút lên ngồi trên chiếc chiếu trải thẳng xuống nền xi măng trên thềm nhà. Hôm nay, như mọi khi, nhà Tảo vẫn đông người. Trong ánh trăng sáng rõ như ban ngày Oanh nhận ra bên cạnh họ vài người quen. Có những khuôn mặt lạ. Chắc họ đến để mua lợn giống. Oanh nghĩ và dắt con xà vào chỗ mấy chị phụ nữ.

            Tảo chào Oanh, rồi hỏi thăm Hoàng có nhà hay không. Anh vừa rót nước mời mọi người, vừa kể một câu chuyện anh nghe được lúc sáng nay ở thành phố.

            – Cái tay này khá thật!

            Tảo mở đầu câu chuyện bằng một lời nhận xét. Cái con người xa lạ nhưng nổi tiếng ở anh cứ được ngâm nga mãi trong sự kính phục của Tảo. Hồi lâu sau, anh mới kể tiếp. Một câu chuyện Tảo được nghe qua sự truyền tụng từ miệng người này qua người khác chứ thực tình, Tảo đâu có biết rõ anh kỹ sư nông nghiệp ấy tên là gì và quê ở đâu? “Chuyện rằng có một anh kỹ sư nông nghiệp, quan hệ trai gái léng phéng gì đó, cơ quan giáo dục không được, bèn cắt biên chế. Hơn một năm vất vưởng lang thang anh ta bỗng phát tài với công trình nghiên cứu, chế biến một loại men ủ chua thức ăn cho lợn. Chỉ làm loại men này một thời gian, anh ta bán rất chạy. Một số trại chăn nuôi còn mời anh đến làm hợp đồng. Hơn một năm sau, anh ta có đủ tiền cưới vợ, dựng nhà, mua đất. Nghe đâu, ty Nông nghiệp đang mời anh ta trở lại làm việc…”.

            Một người nâng điếu lên hút thuốc. Anh bên cạnh thở dài.

            – Người ở đâu chứ người vùng ta có mà…!

            Oanh trở lại câu chuyện giữa mình và Miên:

            – Tôi thật chán anh ạ. Anh ấy cứ như người đi trên trời rơi xuống ấy. Chả biết cái gì cả. Suốt ngày đọc với viết. Tôi định đem bà lên cũng gọi là bán vài thứ lặt vặt kiếm thêm đồng rau cỏ. Anh ấy tỏ vẻ khó chịu.

            Miên nhìn bạn.

            – Chị rõ thật! Anh ấy làm gì mặc kệ anh ấy. Việc chị làm cứ làm chứ. Thế chị mở quán kiếm thêm tiền cho ai nào? Cũng là vì con cả thôi. Chị cứ về làm đi.

            Được kích động, Oanh trở nên sôi nổi. Miên nói tiếp:

            – Bảo anh Tảo một tiếng. Lúc nào lên thành phố, anh ấy kiếm cho một ít đồ đạc, hòm kính về mà đặt hàng.

            Oanh bỗng nhận ra từ trước đến nay, cô lệ thuộc vào Hoàng quá nhiều. Tại sao phải như vậy? Miễn là cô không ăn cắp ăn trộm, không hư hỏng là được! Oanh bỗng vụt sáng trong đầu những quyết tâm mạnh mẽ.

            Trong những ngày ấy, Hoàng đã làm xong hai việc tương đối lớn. Anh viết xong tập sách nhỏ hai trăm trang về máy tàu biển và hoàn thành hợp đồng về thiết kế van một chiều của ly hợp. Anh lên thành phố gấp để báo cáo với Cục. Hôm sau, người ta mời Hoàng đi xem một trường hợp hỏng máy rất lạ tại Nha Trang. Chiếc tàu hơn hai ngàn tấn đang chạy bình thường, máy cứ lịm đi rồi chết, không khởi động được nữa. Tập trung một số thợ giỏi của vùng ba Hải quân, tháo máy ra không ai phát hiện được sự hư hỏng ấy ở chỗ nào. Hoàng được mời lên xe đi gấp vào miền Trung như một bác sĩ vội vã đi cấp cứu cho một ca bệnh hiểm hóc. Hoàng đã ở lại nửa tháng trên bờ biển Nha Trang ấy.

            Suốt những ngày này ở nhà Oanh làm như một cuộc cải cách nhà cửa. Cô nhờ Tảo, nhờ Miên, nhờ chị Hồng chuyển giường nằm, bàn ghế, tủ quần áo, tủ sách vào phía trong. Bức vách bên ngoài, cô đập vỡ một chỗ, mở chiếc cửa sổ dùng để bán hàng. Đoạn thềm bên ngoài, cô thưng lại thành căn phòng vuông vắn và kín đáo. Tảo vốn dĩ là công nhân kỹ thuật gạch rất khéo tay, anh đã cưa đục suốt một buổi sáng đóng cho Oanh hơn một chục chiếc ghế. Phòng của Oanh, phía ngoài rộng ra, phía trong chật ních những đồ đạc và như một căn phòng khác hẳn. Bà mẹ Oanh thường trực ngồi bán hàng tại đó. Có lẽ do khu nhà làm gần đường ô tô nên khách mỗi ngày một đông thêm, không chỉ có những chú học sinh nghiện thuốc lá sớm trốn mọi người ra đó.

            Có thể đó là những ngày thật bận rộn và cũng thật sôi nổi của Oanh. Lên lớp về, cô phải chạy hàng, rồi lại phải làm tất cả những công việc trong một gia đình như nấu nướng, giặt giũ phơi phóng… Tại sâu kín trong lòng, cô có một nỗi lo sợ mơ hồ, phấp phỏng. Không biết rồi Hoàng sẽ có thái độ ra sao trước sự thay đổi này.

            Đúng nửa tháng sau Hoàng trở về.

            Ở miền Trung ra, Hoàng hơi đen và gầy. Anh mặc bộ quân phục lấm láp đầy bụi đường. Hoàng xách cặp, đi bộ từng bước một trên cong đường nhỏ dẫn vào nhà. Đến sát thềm nhà anh mới ngẩng đầu lên: nét mặt anh bỗng thay đổi, trước sự khác lạ của nhà mình. Anh đứng ngây ra ở sân. Người mẹ tươi cười đi ra cửa:

            – Con đã về đấy à?

            – Dạ, vâng.

            Hoàng trả lời mẹ rồi bước vào nhà. Anh nhìn thấy tất cả những đồ đặc của mình một cách lạ lẫm như có ai đó đã mó tay vào. Quả thật, cái tủ quần áo, giường ngủ, cũng như cái giá sách của Hoàng đều bị dồn ép vào một góc. Những phút đầu Hoàng rất giận Oanh. Anh châm một điếu thuốc lá hút, rồi cứ thế, anh lại thấy lòng mình cô đơn và buồn rười rượi. Buổi trưa hôm đó Oanh về, cô vẫn tỏ ra nói năng, cười đùa bình thường nhưng rõ ràng, cô chăm chú lắng nghe, theo dõi thái độ phản ứng của chồng. Oanh không hề hé miệng nói một lời nào với Hoàng về chuyện mở quán. Tất nhiên Hoàng cũng không thể tra vấn Oanh. Hai người sống có vẻ bình thản, bên ngoài nhưng trong nội tâm lại hết sức căng thẳng. Đêm hôm ấy, Hoàng muốn thức cho hết đêm bên bàn làm việc. Anh pha chè, hút thuốc, rút hết tập sách này sang tập sách khác, nhưng không đọc được một chữ nào. Oanh nằm im trên giường như một người ngủ rất say. Nhưng thực ra, cô cũng chẳng hề chợp mắt. Mỗi lúc bé Hoàng Anh cựa mình, cô vội vã vỗ lưng con. Oanh vẫn chờ đợi để giải quyết một cái gì đó nhưng chờ mãi vẫn không thấy.

            Sáng ra. Oanh đi làm việc, bà mẹ lại dọn hàng bán như mọi khi. Hoàng vẫn thấy tỉnh táo kỳ lạ. Anh tiếp tục ngồi vào bàn làm việc. Cái khổ nhất cho Hoàng là những lúc bà mẹ mải làm việc gì đó, không có người trông hàng, thỉnh thoảng lại có người vào mua gói thuốc lá, ấm chè hay vài cái kẹo.

            – Một ấm chè bao nhiêu hả chú?

            – Ba đồng.

            Người đó chìa tiền. Hoàng đưa cho anh ta gói chè. Một lúc sau lại có người đập cửa cộc cộc.

            – Cho cháu mua mấy điều thuốc lá, chú ơi.

            Cái bực tức xem lẫn nỗi khổ tâm cứ hành hạ Hoàng liên tục. Thời gian vẫn trôi qua, và mọi việc xem chừng như đã được chấp nhận thì đùng một cái, sự việc lại không chỉ có thế.

VI

 

          Dần dần trở thành một thói quen: Oanh đã nghĩ gì, cô cứ tự mình định đoạt, chẳng cần có sự tham gia góp ý kiến của Hoàng, Hoàng đã từng an ủi mình bằng suy nghĩ: Thôi việc của cô ấy cô ấy làm. Việc của mình, mình làm. Xác định như vậy, anh có phần yên tâm để tiếp tục lao vào công việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhưng chính Hoàng đã nhầm lẫn. Không biết do ai mách bảo, bỗng dưng có một tốp người đến gặp Oanh mặc cả, nếu Hoàng đại tu cho họ một máy tàu biển cỡ bốn sức ngựa họ sẽ trả cho Oanh một số hiện vật tương đương hai chục ngàn. Không được sự đồng ý của Hoàng, Oanh vẫn nhận lời với tốp người nọ. Khi về nhà, nghe Oanh thuật lại, Hoàng giận đến tái mặt. Anh chợt nghĩ: có thể đây là bọn vượt biển cũng nên. Anh nói với vợ:

            – Cô nhận lời người ta, cô ra mà làm cho họ.

            Nghe Hoàng nói, vẻ mặt Oanh ngạc nhiên. Sau đó thì cô khóc to và gần như lu loa lên. Chưa bao giờ Hoàng lại cảm thấy đau xót như vậy. Anh ngồi im lìm trước bàn làm việc suy nghĩ mung lung. Đã bao nhiêu lần anh lùi bước trước sự lấn át của vợ, trước tiêu cực xã hội ngay trong gia đình, và đi đến giới hạn cuối cùng mà lương tâm danh dự và trách nhiệm của anh cho phép. Đã đến cái ngày mà Hoàng không thể chịu được nữa. Trước mặt Oanh là hai con đường. Hoặc Oanh chọn con đường kia thì phải vĩnh biệt Hoàng. Hoặc nếu chọn Hoàng thì phải từ bỏ tất cả những cái gì mà cô đang suy nghĩ.

            Trong quan hệ vợ chồng đang giữa lúc ngổn ngang trăm mối thì một người đàn ông mặc cả về đại tu máy tàu biển nọ lại đến. Lần này anh ta đến và gọi Oanh ra ngoài thúc giục cô tiến hành hợp đồng. Sự kiện đó đẩy Oanh đến nổi khùng với Hoàng. Cô nói như quát lên:

            – Nếu anh không làm cho người ta thì thôi đấy.

            Hoàng nhìn thẳng vào mắt vợ. Hoàng tìm thấy ở vẻ mặt của Oanh những tia sáng gay gắt lâu nay anh chưa hề thấy. Thế là hết! Hoàng tự nghĩ. Câu nói ấy bỗng âm vang trong lòng anh như một quyết định. Thế là hết! Hoàng châm một điều thuốc hút. Anh thấy lòng mình bỗng nhiên trở lại điềm tĩnh, vắng lặng đến kỳ lạ. Đã hết rồi thì còn gì đáng nói nữa?

            Buổi chiều hôm đó, Hoàng muốn nói chuyện thật nghiêm túc với Oanh. Anh lau bàn, pha nước, thu dọn bàn như chuẩn bị đón một khách quan trọng. Anh thông báo với Oanh:

            – Buổi chiều nay, chúng ta nói chuyện với nhau một lát.

            Thái độ lẳng lặng của Hoàng làm Oanh hơi tò mò. Cô ngước nhìn Hoàng, không nói thêm điều gì. Hoàng chủ động rót nước ra chén, bảo Oanh ngồi xuồng chiếc ghế trước mặt. Oanh cưỡng lại:

            – Cứ làm như hỏi cung ấy. Ngồi đâu cũng được.

            – Bây giờ thế này nhé – Hoàng mở đầu. Anh không ngờ mình lại tỉnh táo đến như vậy.

            – Đã đến lúc chúng ta cần bàn bạc với nhau một cách nghiêm túc, Oanh ạ. Suốt thời gian qua anh thấy chúng mình sống rất êm đềm và hạnh phúc. Nhưng từ mùa hè đến giờ, Oanh có những thay đổi rất kỳ lạ. Em đòi anh phải thế này, đòi anh phải thế khác. Anh không thể đi theo sự suy nghĩ của em được.

            – Oanh ngắt lời. Giọng cô tử tế hơn:

            – Anh muốn em phải thế nào?

            – Nghề của em là dạy học. Em phải trở lại nghề nghiệp của mình một cách nghiêm túc. Nếu có làm thêm thì dạy ngoài giờ.

            Oanh khẽ mỉm cười.

            – Ý kiến của anh vẫn như thế.

            – Chứ sao?

            Oanh lại mỉm cười:

            – Còn nếu không?

            – Thì tùy Oanh. Chúng ta vĩnh biệt nhau cũng được.

            – Anh viết đơn đi – Cái đó khó gì.

            Mặt Hoàng nóng bừng lên. Lòng tự ái của Hoàng bỗng vụt lóe lên. Anh hoàn toàn không ngờ tình cảm của anh và Oanh lại hư hỏng nặng nề như vậy. Lá đơn ly dị do Hoàng viết xong ngay tức khắc. Cả Oanh và Hoàng đều ký vào lá đơn ly dị ấy trong trạng thái bị kích động đến tột độ. Vài ngày sau họ vẫn thấy nhẹ nhàng như không có chuyện gì xảy ra. Thậm chí, họ còn mất hẳn những câu nói nặng nề với nhau, và bình thản như mọi gia đình ấm êm khác. Bà mẹ Oanh sau khi can ngăn con không được, bà khóc lóc trở về quê. Hàng xóm không biết chuyện này và cháu Hoàng Anh cũng không biết chuyện này.

            Lần này trở lại phòng kỹ thuật, Hoàng ở lại dài ngày hơn mọi khi. Mặc dù có nỗi đau riêng, Hoàng lại làm được việc hơn cả một năm vừa qua. Anh có hạnh phúc riêng của một người có tay nghề vững vàng. Một chiếc tàu hỏng máy chết dí tại một cửa biển nào đó, Hoàng đến tháo máy móc ra xem xét. Cái gì hỏng nặng thì thay thế, cái gì cần sửa chữa, điều chình, chỉ cần làm trong thời gian ngắn, con tàu có thể nổ máy, sống lại và ra khơi. Tuy là một phó tiến sĩ, nhưng Hoàng lại lao động cần cù như một người thợ bậc sáu, bậc bảy. Biết bao nhiêu con tàu, tưởng chừng cũ nát, thời gian rồi sẽ biến nó trở thành cát bụi, Hoàng mó tay vào, trả lại sự sống cho nó, cho nó trở lại với cuộc đời biển khơi sóng vỗ. Ghi nhận những đóng góp của Hoàng, quân chủng Hải quân đã đề nghị Hoàng giữ chức trưởng phòng kỹ thuật.

            Anh bảo: Trưởng phòng hay phó phòng với anh cũng không quan trọng. Chủ yếu là anh vẫn được lao động, lao động say mê trong cái nghề máy tàu biển của mình. Một ngày nọ, Hoàng nhận được một khoản tiền lớn. Mấy ngàn bạc ấy là công lao trong việc ký hợp đồng cải tiến kỹ thuật một số dụng cụ bảo dưỡng lớn cho tàu. Hoàng nói với tôi chưa bao giờ anh lại thấy thừa tiền như vậy. Anh nói và vẻ mặt anh rất buồn. Anh mua một số quần áo, quà bánh cho con, nhưng mới chỉ hết một phần nhỏ. Số tiền còn lại, anh không biết dùng nó vào mục đích gì.

            Ở nhà Oanh sống cũng cực nhọc không kém. Bạn bè trong xóm giáo viên sau đó vài ngày, ai cũng biết vợ chồng Hoàng viết đơn ly dị nhau. Người phản đối Oanh nhất lại chính là anh Tảo.

            – Chị đi mà xin lại đơn đi. Phải cho tỉnh táo, chỉ cần quá một chút là hỏng việc đấy.

            Chị Hồng, chị Thanh, cô Miên và tất cả những người quen biết, ai cũng chê trách Oanh. Người ta bàn rằng, những ngày gần đây, Oanh sống có vẻ thất thường. Đấy cũng là cái dịp để người ta xem xét lại tư cách của Hoàng. Mọi người đều tiếc rẻ Hoàng. Một con người thông minh, hiền từ và chững chạc. Sau mỗi lời khen, một tiếng bình phẩm là cái tặc lưỡi:

            – Cho cô Oanh cố ấy biết.

            Không phải Oanh bị cô lập, nhưng mọi người khi nghĩ về Oanh đã bắt đầu gợn lên một sự ngờ vực. Nhà Oanh trở nên vắng teo. Vợ chồng anh Tảo và cô Miên cũng mất đi vẻ thân tình với Oanh như trước. Nhưng quả thật, thời gian là cái có hiệu lực nhất trong quá trình làm cho Oanh hiểu ra vấn đề. Càng ngày cô càng thấy thấm tháp nỗi cay đắng do chính mình gây ra. Những chiều thứ bảy và những ngày chủ nhật, lẽ ra có Hoàng ở nhà, nhưng lại chỉ có một mình Oanh và con. Cháu bé đang tập nói nên nó rất hay hỏi. Đêm nào trước lúc đi ngủ, nó cũng vỗ vỗ bàn tay nhỏ bé sắp đặt.

            – Mẹ nằm đây. Bố nằm đây.

            Cháu vỗ vỗ vào từng chỗ cụ thể xuống giường và như phân công vậy. Mẹ nằm trong. Nó nằm giữa và nằm ngoài là bố. Bố nằm ngoài. Bố nằm ngoài để bắt kẻ trộm. Ít nhất nó cũng quen nghĩ như thế. Cháu hùng hục bê chăn, bê gối, dọn từng chỗ ngủ cho mọi người. Tuy cháu nghĩ vậy, nhưng sau một hồi vừa bê vừa xếp thì chăn gối lẫn lộn lung tung. Đó là lúc nó cũng nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến sáng.

            Vài ngày sau, Oanh bế con hấp tấp lên tòa án nước mắt giàn giụa xin lại lá đơn ly dị. Cô nói rất thực với đại diện của Tòa án.

            – Bây giờ em mới biết em vẫn rất yêu anh ấy.

            Hơn một tháng sau, Hoàng lại mới về thăm nhà. Anh mang quần áo và quà bánh về cho con. Lúc đầu tiên bước vào nhà, Hoàng thì lặng lẽ, còn Oanh lại òa khóc. Cô khóc đến mức Hoàng phải lúng túng đứng dậy. Ngay chiều hôm đó. Oanh xin lỗi Hoàng. Anh không nói gì cả, miệng mỉm cười một nụ cười vừa buồn vừa như ngỡ ngàng.

            Tôi nghĩ hai người khó mà bỏ được nhau. Vấn đề không phải là ràng buộc bởi một đứa con. Điều quan trọng nhất là họ vẫn yêu nhau, mặc cho biết bao sóng gió đã thổi vào họ. Cho đến nay cái gia đình nhỏ bé ấy đã ấm áp trở lại như những ngày trước đây. Có thể cuộc sống tại trường bây giờ đã có phần khác trước. Các lớp học thêm đã được mở trở lại. Vốn là một giáo viên dạy tự nhiên rất vững, Oanh đảm nhiệm dạy toán cho cả ba lớp. Cuộc sống của các thày, các cô đã có phần ổn định. Bên cạnh đó, địa phương còn cho các cô thêm đất để tăng gia và chăn nuôi. Nhưng sự ổn định ấy trong gia đình Hoàng lại thêm một lý do khác nữa. Tôi nghĩ như thế. Bởi tôi thấy, Oanh như một cái kim la bàn đã xác định lại được hướng sau những giờ phút chao đảo dữ dội!

                                                                                             Năm 1983

 

 

 

SỰ TÍCH HOA HỒNG

I

           Nàng có cái tên thật long lanh: Ngọc Châu. Cứ nhìn vào mắt nàng thì biết. Đôi mắt trong và hiền như đứa trẻ. Sự hồn nhiên của nàng thật lương thiện. Cũng chứng tỏ chưa có người đàn ông nào làm vướng bận nàng. Chưa có niềm vui, nỗi buồn bất chợt. Chưa có sự dấm dớ, lẩn thẩn hoặc khùng điên của kẻ hiểu biết mùi đời. Nàng còn trong sạch lắm, vì nàng vừa lớn. Thậm chí nàng còn chưa biết sợ đàn ông. Dấu hiệu thoải mái quá của nàng đâm ra hở hang. Lúc nàng cúi xuống múc nước, chỗ cần dấu kín sau lớp áo lộ ra rõ mồn một. Ở đâu đó người ta cũng đã thấy chân của nàng, thấy cả phần trên của bắp chân. Nàng đâu có biết rằng cái đẹp nhất, chính là cái đáng sợ nhất. Cái trời phú cho con người để hạnh phúc, để tái sinh khuôn mặt nàng cho kiếp sau lại là nguyên nhân của hiểm họa?

         Một hôm nàng đi lấy cỏ. Có người đàn ông lạ mặt qua đường. Vừa thấy nàng, ông đã tròn mắt ngạc nhiên. Ông nhìn chằm chằm vào mặt nàng. Còn nàng thì nhìn chằm chằm vào người ông ta. Đối với vùng quê của nàng kiểu ăn mặc của ông khách thật lạ lùng. Ông thật giống người trong các vở tuồng mà xứ nàng vẫn diễn. Áo gì mà lắm dây dợ như vậy. Nàng chưa kịp nhận ra trước mắt mình là một chàng thanh niên tuấn tú. Chỉ khi cái nhìn được rọi vào mặt người khách, má nàng mới đỏ dần. Nàng đã cảm nhận được cái tinh lực trong ánh mắt. Một con người chưa từng có trong nàng được thức dậy. Nàng trở nên luống cuống. Đây là vẻ đẹp của Tây Thi và Trịnh Đán1! Chàng trai thốt lên trong lòng rồi bình tĩnh cởi bỏ những thứ trên người. Vẫn phong thái đàng hoàng của mình, chàng trai quỳ xuống bãi cỏ thơm mùi buổi sớm. Ta thật diễm phúc! Thật diễm phúc. Chàng nghiêng mình thán phục trước vẻ đẹp nõn nà của thiên nhiên. Nàng ngần ngại, phút chốc trở nên kinh ngạc bàng hoàng. Nàng giống như người sắp bỏ chạy. Nhưng chàng trai đã kịp ngăn lại. Em đừng đi. Ta đã từng có mặt ở muôn nơi, uống nước trăm con sông, ngủ trăm cánh rừng, chưa gặp được ai có được cái hoàn hảo của em. Ta muốn cùng em. Muốn cùng em.

         Nói xong, chàng rút thanh kiếm ra, đặt bàn tay lên cục đất chặt phập một cái. Một đốt ngón tay út lìa ra máu phun đỏ lòm.

         Nàng kêu thét lên. Còn chàng trai thì bình tĩnh đáp: Ta không có gì để làm tin. Xin nàng nhớ ngày hôm nay. Ngày mai nếu còn trở về, nàng hãy nhận cho.

         Nàng hết sức xúc động. Chàng trai lại nói: Ta sẵn sàng đổi cả đời mình để lấy nàng. Tiếc thay, không ở lại được. Điều mà ta đang đi làm còn lớn hơn cả đời ta! Đó là sự bình yên của muôn nhà. Ngày mai có thể ta trở về. Cũng có thể thây ta vùi tan trong bùn đất.

         – Thật sao?

         Đúng như thế. Sự nghiêm trang có chứa nỗi buồn của chàng đã kích động nàng đến tột độ. Nàng ngồi xuống cỏ.

         Chàng nhìn nàng đầy ắp, chứa chan. Chợt nàng mỉm cười như đứa trẻ. Nàng không thể hình dung nổi ngày mai thân xác chàng lại vùi trong đất. Và chàng, trang nam nhi oai hùng cũng cười một nụ cười hiền lành, mềm yếu. Nụ cười thật lương thiện. Họ cởi lòng cho nhau. Nhưng mà từ từ thôi đấy. Em sợ. Rồi mắt nàng nhòa lệ. Gương mặt tự nguyện thánh thiện sáng ngời. Nụ cười vẫn đang trên đó. Nhưng hai mắt vẫn chứa chan. Chàng bắt đầu đụng vào người nàng. Sự rung chuyển từ đâu đó bỗng biến thành đám lửa bốc cháy. Họ nằm trên cỏ thơm. Quanh họ là thiên nhiên độ lượng và từ thiện. Cơn đau tức thời xé trong cơ thể nguyên vẹn và hoàn hảo của nàng. Rất cao và rất xa, những đám mây như trôi trên dòng sông vũ trụ.

II

          Thế là nàng có cả một thế giới vô tận để thương nhớ, cái thế giới đó bao la, xanh ngát, hấp dẫn và đầy huyền bí. Một thế giới xanh thả hết mong ước cũng chẳng tới được cái tận cùng mê đắm. Tráng sĩ trở thành con người khổng lồ trong ngày. Nó choán hết về diện tích, về thời gian và không gian. Thế giới có vài hình ảnh cụ thể để được khắc rõ như vết dao khắc vào gỗ đá. Lúc chàng bước đi nụ cười của chàng thật mềm yếu, dễ thương. Rồi chàng trở thành cái chấm đen chìm dần trên con đường xuyên qua dãy núi hình răng cưa mờ xa. Khủng khiếp hơn cả, mạnh hơn cả, giống một tiếng nổ, đó là ấn tượng lúc nàng trông thấy máu của chính nàng nhỏ từng giọt trên những lá cỏ mềm xanh mướt. Mùi thơm của thiên nhiên nhiên tràn vào người nàng. Nàng nhận ra một cách cụ thể sự vĩnh biệt tuổi thơ của mình. Vĩnh biệt sự trong trắng vẹn nguyên. Bù lại tráng sĩ sống trong nàng thường kỳ, lúc như ảo ảnh, lúc có thật cả khối lượng, mùi vị, cả tiếng nói, giấc mơ đã đem lại cho nàng tất cả. Còn ban ngày đi làm việc gì, nàng cũng có chàng. Nụ cười mềm yếu, dễ thương… Cái núi hình răng cưa đã nuốt bóng chàng và bãi cỏ có những giọt máu.

         Đau đớn thay chàng vẫn biền biệt. Thời ấy, chiến tranh đã qua. Nàng cũng biết thế. Một nửa sự suy nghĩ của nàng là chàng đã chết. Một nửa là sự ngờ vực: Có thể chàng phản bội. Những lúc đó trông nàng có vẻ giữ tợn. Nàng sẽ dùng răng để cắn tan xác chàng nếu đúng là như vậy. Nàng bực tức, nhưng nước mắt lại tràn cả mặt. Nàng ăn không biết ngon. Nàng ngủ trên giường êm mà giống như nằm trên đá hộc. Khuôn trăng đầy đặn chẳng mấy chốc hao gầy. Thần chết đã rình ở đầu ngõ. Bao giờ cái trình tự trong nàng cũng là: nhớ mong cháy lòng rồi đến hận thù tột đỉnh. Cơn đau đớn kéo dài dẫn đến tình trạng kiệt sức. Nàng năm bẹp trên giường như một đứa bé: Xanh lét, xương xẩu. Nàng khước từ mọi sự săn sóc. Suy nghĩ cứ dồn mãi, dồn mãi, chợt một hôm mọi người kinh ngạc chứng kiến: Nàng vụt đứng dậy. Cái con người tưởng không còn đi được nữa ấy đã lao ra cửa. Nàng lao nhanh như một mũi tên ánh sáng. Vừa chạy nàng vừa hét lên một cách dữ tợn. Nàng đập phá tất cả những gì gặp được. Nàng cắn xé lá cành, bẻ cây, giống con thú bị điên. Sau cùng, nàng nằm vật ra cỏ. Lạ thay, kể từ hôm đó nàng lại trở lại hiền lành như xưa. Nàng ăn nhiều như trẻ ăn trả bữa sau ốm. Nàng có da thịt dần. Mặt nàng lại thắm đỏ. Có điều, tính tình của nàng trầm hơn. Vẻ đẹp của nàng vẫn lộng lẫy như xưa. Chỉ có điều, đó là vẻ đẹp đoan trang loáng nhoáng nét trải đời.

         Giống như sau tiếng nổ động trời. Đất đá rơi xuống và cõi tĩnh lặng lại đến. Nàng tưởng đã sòng phẳng được với quá khứ. Nửa năm sau nàng lấy chồng. Chàng họ Lê, tên Trương cũng là người nho nhã, danh giá. Vốn xuất thân từ gia đình quyền quý, lại có học, từ cách đi của chàng cũng đã khác người thường. Chàng đi lại chậm rãi, khoan thai. Nét mặt tươi và sang của người đủ ăn, có học, miệng chàng luôn luôn có một nụ cười. Đám cưới của họ to lắm. Kẻ hèn thì tò mò đi xem. Người sang thì nhân dịp đến để cầu thân. Sự đông đúc ầm ĩ ấy rồi cũng qua đi. Đêm tân hôn, trăng sáng vằng vặc. Chàng Lê Trương theo lời cha, một người nhiều chữ dặn sắm cái lễ để cúng trời đất. Gà vừa gáy lần thứ nhất, trời bắt đầu chuyển giờ tý thì mâm cỗ được bầy ra giữa cái sân rộng. Chàng Lê thắp bảy chiếc nến và năm nén nhang xì sụp cúi lạy. Chàng lạy trời: Khoảng xa vời có những vì sao đang nhấp nháy, nơi cho con người và muôn loài linh hồn. Chàng lạy đất, nơi tựa vào đó mà thể xác của muôn loài được nảy sinh. Giống như cái lễ để xin nhập phòng vậy. Chàng cầu cho sự tốt lành. Xong xuôi chàng mới đĩnh đạc bước vào buồng the. Họ ân ái với nhau được một lần thì trời sáng.

          Vốn là chàng trai thông minh, chàng Lê hiểu được sự nguyên vẹn trinh trắng của vợ chàng đã bị đánh cắp. Chàng không làm ầm lên mà lặng lẽ ghi nhận. Sự đa nghi cứ lớn dần lên khiến thay vào vẻ mặt hài lòng, thỏa mãn của chàng là nét bực bội vô cớ. Người vợ vốn muốn đã quên quá khứ cứ như chợt thức dậy sự so sánh: Hình như chàng không được độ lượng lắm. Nàng còn đo được sự hờ hững của chàng. Có lúc vợ chồng với nhau mà chàng như kẻ đãng trí. Lại có lúc chàng vào cuộc như băm bổ, như trả thù ai! Nàng bắt đầu nhớ lại tráng sĩ. Sự hoài vọng đó tạo thành một thế giới riêng trong nàng. Nó chi phối thực sự đời sống vợ chồng của nàng. Chiều chiều, nàng đi bộ ra đầu làng. Nàng thả hồn về phía rặng núi răng cưa. Nơi tráng sĩ đã biến vào đó rồi mất hút. Nàng chìm đắm trong nỗi nhớ thương da diết. Những lúc đó, nụ cười mềm yếu của tráng sĩ lại hiện lên như nét chạm khắc. Tất cả những hành vi của nàng đều không lọt mắt chàng Lê. Dứt khoát vợ chàng tưởng nhớ đến ai. Nét mặt tươi rói ngày đầu chàng được hưởng bây giờ không còn nữa. Ý nghĩ chống lại và sự trả thù bắt đầu hình thành. Từ đó, cứ vào buổi hoàng hôn chàng lại sai nông dân đốt những đống lửa thật lớn. Chàng bày cho họ dùng rơm, rạ tươi. Chàng có mặt bên cạnh để đốc thúc họ. Những đám mây lớn đen kịt cuồn cuộn cháy che lấp cả một vùng chân trời.

          Sự mẫn cảm bẩm sinh của người phụ nữ mách bảo cho nàng biết điều đó. Nàng thôi không đi bách bộ để thương nhớ hoài vọng tráng sĩ nữa. Thay vào đó, còn khủng khiếp hơn. Song hành với chàng Lê, hình ảnh tráng sĩ có mặt trong ngôi nhà của vợ chồng nàng. Chàng đi lại, ăn nói thoải mái. Tiếng cười của chàng ngập đầy nhà. Lúc ái ân, nàng thường ăn nằm với tráng sĩ. Có lúc nhận ra chồng nàng, thân thể nguội lạnh, nàng hét lên vì khiếp sợ.

          Chàng Lê cho rằng vợ mình mắc bệnh tưởng. Nhiều lúc thấy nàng nói lảm nhảm như hồn bị ma ám, chàng bèn mời thày cúng đuổi ma tà. Vốn là nhà có danh thế, chàng còn mời các nhà thơ, các ca sĩ đến hát hò mua vui. Có lúc nhà ầm ĩ như cái rạp hát. Những lúc đó nụ cười chân thực của con người hiện dần lên khuôn mặt xinh đẹp của vợ chàng.

          Mọi sự cố gắng ấy, chàng Lê chỉ trông một điều: Vợ chàng toàn tâm toàn ý với chồng. Bởi điều chàng Lê lo sợ nhất là đứa con sắp ra đời. Nó phải là con của chàng toàn diện. Chàng thân cao, vai rộng, mặt dài. Nếu nó không phải là hiện thân của chàng thì chàng sẽ chết mất. Còn nếu nó giống như mẹ: Mình tròn, mặt trái xoan cũng chứng tỏ vợ chàng yêu thương chàng ít.

          Chàng tiếp tục chống lại con người vô hình trong vợ chàng một cách hết sức. Không cho nàng buồn. Chàng kéo nàng vào các cuộc vui. Nàng ngẩn ngơ soi mình xuống mặt ao, lập tức chàng lấp ao. Nàng ngắm cây dừa với cái nhìn chứa chan, mềm yếu, chàng sai chặt ngay cây dừa. Nhiều đêm chàng thức bên vợ để kiểm định cả những giấc mơ. Nàng vừa trò chuyện với ai đó trong giấc ngủ, chàng đã gọi ngay vợ dậy. Chàng phải thức tỉnh vợ và chứng tỏ sự hiện diện duy nhất của mình. Nhiều lúc chàng đã cảm thấy sự bất lực. Chàng héo hon đi vì sự cố gắng gần như được huy động cả.

          Rồi một ngày trang trọng đã đến. Vợ chàng sinh con trai! Than ôi, đứa bé không giống cha, không giống mẹ, thân nó dài, mặt nó vuông. Chỉ mẹ nó biết: thằng bé có khuôn mặt tráng sĩ.

          Được tin, chàng Lê mỉm cười dửng dưng, nhưng thần sắc lại tái ngắt. Chàng đại bại trong việc âm thầm chống lại con người tồn tại và ngự trị trong nàng. Thế là hết! Chàng cảm thấy một điều gì đó như tiền định. Có lẽ biết mình thua cuộc nên chàng vứt bỏ mọi cố gắng và trở nên dễ dãi. Chàng đến bên con ngắm nghía nó. Chàng nhận ra hình hài, da thịt nó là do chàng tạo ra. Nhưng tinh thần thì không phải. Cái bóng mà con người chàng chưa hề biết kia tỏa trùm cả chàng, nàng và đứa bé. Đúng hôm đứa con trai đầy cữ, chàng làm cái lễ cúng tổ tiên. Thấy chàng lẳng lặng và trang trọng, sụp lạy lâu hơn mọi khi nàng đã sờ sợ. Hình như có điều gì hệ trọng sắp xảy ra với mẹ con nàng.

          Quả nhiên lễ xong, chàng Lê Trương lấy từ trong tủ ra một cái hộp. Chàng trịnh trọng gọi nàng đến bên cạnh. Nàng sợ hãi nhìn chồng. Mặt chàng hiền và buồn. Không có dấu hiệu đe dọa. Rồi chàng thủng thẳng nói: Lâu nay ta đã cố gắng nhiều. Ta yêu nàng hơn bản thân. Ta không truy cái lỗi của nàng. Nhưng ta quyết thắng đối thủ của mình, con người chính ta cũng chưa biết tên và chưa một lần hỏi chuyện nàng. Song ta đã thua. Đã thua cái bóng của một kẻ xa lạ. Đối với một trang nam nhi ta biết thế là hèn lắm. Nàng đừng gàn ta “Làm trai chống kiếm đi thì đi, đừng buồn như đàn bà lúc phân ly”2. Ta sẽ ra đi. Nếu nay mai bôn ba thiên hạ, ta tự thấy mình không kém cỏi nữa, thế nào ta cũng trở lại.

          Nói xong, chàng trao lại toàn bộ đồ gia bảo rồi dứt áo ra đi. Mặc cho nàng quỳ sụp lạy van, chàng ra đi mà không ngoảnh đầu nhìn lại.

          Mấy ngày sau, trong cái vòng luẩn quẩn của tuyệt vọng, của cô đơn, nàng chạy như cơn gió hoang trên đồng. Vô tình hoặc có thể do ấn tượng cũ, nàng lại đến đúng đồng cỏ nơi nàng và tráng sĩ gặp nhau. Nàng đứng sững lại và tròn xoe kinh ngạc: một loài cây có gai mọc đúng chỗ thân thể nàng chảy máu. Trên cành có những chùm hoa đỏ rực nhìn đến nhức mắt. Nàng rụt rè bẻ mấy cành mang về nhà cắm. Nàng chợt cảm thấy đau đớn, nuối tiếc, xót xa.

          Bây giờ, người ta gọi hoa ấy là hoa hồng.

Hà Nội, tháng 2 năm 1992


1 Hai người đẹp thời Đông Chu

2 Thơ Cao Bá Quát

MỖI THỜI CỦA HỌ

            Thực ra họ đã có một thời thật hạnh phúc. Cưới vợ từ năm 1966, cái thời ấy ông Bao còn là thần tượng của cả dãy phố. Với ve áo thiếu tá đỏ chói, khẩu súng lục treo gọn bên hông, bộ quần áo lính đầy vẻ dã chiến từ các chiến trường vang dội trở về, ông Bao có trong giấc mơ của nhiều cô gái và sự thèm muốn của nhiều bậc cha mẹ. Và ông có khả năng cầu hôn với bất kỳ cô gái xinh đẹp nào. Vì thế anh Bao, trong một cuộc đi nói chuyện về chiến dịch Đường 9, chiến dịch anh đích thân chỉ huy trung đoàn của mình đã thuận lòng lấy cô Tươi, cô gái trắng, đẹp, trẻ trung của họ ở văn phòng nhà máy dệt.

            Tất nhiên là cô Tươi rất hài lòng. Cô hoàn toàn thỏa mãn và hãnh diện với bạn bè, người thân về Bao. Cô cách Bao mười bốn tuổi. Song, lúc đó, sự cách lệch về tuổi tác không hề thuyên giảm tình cảm trong cô vợ trẻ. Họ yêu nhau, thủy chung và đam mê. Mỗi lần từ một chiến dịch trở về, ngoài niềm hạnh phúc, Bao còn mang thêm về cho vợ  nhiều niềm tự hào. Ngày ấy Bao là một anh hùng đích thực, và cô Tươi cũng là một cô vợ hạnh phúc đích thực.

            Hà Nội vốn là xứ sở của ý tứ xã giao. Vậy mà số người theo chân Bao về nhà để nhìn anh, nghe anh kể chuyện đông đến phải nhường lối nhau qua cổng. Bao vui lòng tiếp tất cả mọi người. Vợ anh, cô Tươi thì chín hoàn toàn trong niềm sung sướng không sao kể xiết ấy. Cô lo đun nước, chạy ra chạy vào lấy ấm chén. Bao nhiêu lần về cũng đều như vậy, cái đỉnh điểm của sự sung sướng là Bao theo chân vợ vào bếp hoặc qua buồng trong. Cái lý là để làm một việc gì đấy. Song không phải. Mỗi lần Bao về đều diễn ra đúng như vậy. Thành thử tuy không nói ra miệng, không thành điều quy ước, nhưng cả hai vợ chồng đều ngầm hiểu nhau, đều chờ đợ đến cháy lòng cái giây phút ấy. Cái phút mực nước của sự thèm muốn đã dâng cao như nước sông Hồng ngày lũ lăm le đổ òa vào xóm làng. Khách thì hiểu là cả hai vợ chồng có việc cần phải bàn gì đó. Những nét mặt vẫn đang cười dở nụ cười còn lại, đang nghe dở câu chuyện bỏ lửng, đang hỏi nửa chừng một việc gì đó. Bao bước vào nhà đã gặp vợ đứng tại góc tối trong tư thế chờ đợi. Mặt chị hơi ngửa lên, ánh nhìn chan chứa hạnh phúc. Họ ôm chầm lấy nhau. Và đã có lần, mất cả lịch sự, khách chờ hơi lâu một tý ấy là lúc cả hai vợ chồng đều không kiềm chế được một chút nào nữa. Họ đổ ập vào trong nhau trong tiếng rên khe khẽ của hạnh phúc. Và thường thì lúc trở ra, Bao vẫn giữ được thăng bằng như cũ. Cô Tươi thỏa mãn như thửa ruộng được mưa đầy ắp nước. Cô không dấu được vẻ uể oải chậm chạp của mình.

            Con Huế ra đời đánh dấu chiến dịch Mậu Thân lịch sử, trực tiếp ông Bao chỉ huy trung đoàn đảm nhiệm hướng con đường số 1, tiến vào thành phố. Còn con Sanh, con bé thứ hai là dấu hiệu đợt đi họp ở Hà Nội của ông trong chiến dịch đường số 9 ở Khe Sanh. Bây giờ chúng nó đã trở thành hai cô gái. Con Huế người tầm thước, da ngăm ngăm, thông thường thì ít nói (trừ lúc cãi nhau) còn suốt ngày đan len, học cắt áo sống, hay đố kỵ ngay với cả em, có vẻ hẹp hòi, ích kỷ trong chi tiêu, nhưng lại cần cù, chịu khó. Còn con Sanh thì ngược lại nhanh nhẹn thông minh có vẻ cơ hội trong cuộc sống. Hai chị em hay trò chuyện tâm sự cùng với nhau như đôi bạn thân, nhưng cũng sẵn sàng cãi lộn nhau, bới móc, ghen tỵ nhau những lúc không vừa ý. Ở trong nhà còn có bà nội gần tám mươi tuổi… Bà đã ở trạng thái lẫn. Cho bà ăn gì cũng được, chẳng bao giờ bà cất tiếng đòi hỏi. Bà nghe thì kém nhưng bà vẫn đi lại chậm chạp trong nhà. Có lẽ vì tuổi già, bà hay quên. Ông Bao và Huế có tính hay thu dọn, xếp đặt, dành hẳn cho bà một chiếc bô nhựa để đổ bã trầu. Vậy mà bà cứ quên. Mỗi lúc quên, bà thường nhổ toẹt vào mấy chậu hoa, có khi cả góc nhà. Huế vốn sạch sẽ, kỹ tính, nó nhăn mặt.

            – Bẩn kinh lên được.

            Thường thì ông Bao uốn nắn ngay thái độ của con gái. Nó im lặng không phản ứng gì. Trong nhà Sanh và chị Tươi thường không chú ý những điều vặt vãnh.

            Bà nội không quên được ở quê. Mảnh đất mà anh ruột của ông Bao đã bán đi trong cuộc quyết tâm đưa cả nhà về thành phố. Gần đây bà nội ngày càng nhớ quê cha đất tổ hơn. Có lúc không lẫn, bà giục anh Bao cho bà về. Ở Hà Nội chật chội quá, bà không chịu. Còn những lúc như thế này tư duy bà lang mang. Bà vẫn tưởng mình đang sống tại làng Đồn. Cái làng thân thuộc với bà phía trước là sông, phía sau là dãy núi, bên phải và bên trái là hai cánh đồng lúa trải dài hết tầm mắt.

            Ông Bao lên đến đại tá bốn sao thì về hưu. Lúc đó tuổi ông vừa tròn năm tám. Ông về hưu một cách thoải mái chứ không do đánh đấm gì. Vốn là người suốt đời làm công tác tổ chức quản lý, chỉ huy nên ông vừa về đã được phường mời đứng ra làm công tác đảng. Ông vui vẻ nhận lời. Khi ông nhận công việc mới, chị Tươi không có ý kiến gì. Chỉ có Sanh bĩu môi.

            – Bố ạ, bố nghỉ đi cho khỏe. Vài chục ngàn bạc lương chẳng bõ công bơm vá xe đạp.

            Huế gạt ý kiến em ra.

            – Mày thì biết gì! Bố cứ làm bố ạ. Bố có làm ở đó, cái thế nhà mình cũng khác.

            Ông Bao không còn phải lo gì cho hai cô con gái. Đứa làm ở ngoại thương, đứa làm ở phòng tài chính rồi. Tuy hai cô con gái chưa có bằng gì, song công việc ấy cũng có thu nhập.

            Ở phường khá bận. Do nhiệt tình, lại trong sáng, một thời gian ngắn hoạt động, ông Bao đã đẩy phong trào đoàn thể từ im lìm lên hoạt động sôi nổi và hữu ích. Như năm ngoái, hội phụ nữ phường này đã quyên góp tiền, sắm được năm mươi cái băng nhạc gửi cho các chiến sỹ đảo Trường Sa. Ông thường nói với cả nhà.

            – Bố muốn sống suốt đời theo cái đạo của một người lính.

            Thế rồi, bắt đầu là việc người mẹ thường đi làm về muộn. Dạo đó nhà máy dệt chỗ chị Tươi cũng bận thật. Song tinh ý như Huế, thì xem ra không phải như vậy. Mẹ đi làm về muộn nhưng cái dáng lại chả bận tý nào. Cô ngước đôi mắt dò xét nhìn từ đầu đến chân mẹ, cuối cùng dừng lại chỗ đáy mắt.

            – Mẹ ơi! Sao dạo này mẹ hay về muộn thế. Toàn để bố phải đi chợ, nấu cơm, giặt giũ, quét dọn.

            – Chị khéo vẽ chuyện.

            Chị Tươi quay ngoắt lại lườm con như đè nén. Vừa cởi quần áo đi làm thay bộ đồ, chị tiếp tục diễn giải với thái độ đe nẹt.

            – Không lo mà hoàn thành khoán sản phẩm lấy gì cho các chị ăn uống, may sắm.

            Huế cau mặt giận mẹ. Quyết không phải như vậy! Huế nghĩ, chắc còn một công việc gì đó nữa. Chứ giờ này, chẳng có một cơ quan xí nghiệp nào mở cửa. Huế giật mình nhớ ra rằng: Bố đã năm mươi tám, trong khi đó mẹ mới bốn mươi tư tuổi.

            Bố vào cái tuổi già nua, mệt mỏi, tóc trắng, răng long chỉ còn biết lấy công việc giải khuây thì mẹ bắt đầu đẫy ra, đỏ rực như bó đuốc. Tuổi của mẹ bây giờ là cái tuổi có trong mình những thèm khát mãnh liệt nhất. Huế nghĩ như vậy song im không nói năng gì. Cô liếc nhìn bố đang cắm cúi dưới bếp. Làm nhiều việc một ngày ông vẫn không hề than vãn. Ông lại còn hay khôi hài cho nhà có tiếng cười. Có một việc mà Huế và Sanh đều rất sợ, mẹ cũng hay bỏ, đó là việc thay quần áo, tắm và giặt cho bà nội. Những cuộc tắm giặt cho bà thật vất vả. Ông Bao vừa la hét (vì bà nghễnh ngãng) vừa dỗ bà tắm như dỗ một đứa trẻ. Có lần Huế trách mẹ không nên để bố làm việc ấy thì ông Bao cười nhạt.

            – Bố đi ngót bốn mươi năm, việc nhà mẹ lo cả. Bây giờ bố làm được con ạ.

            Huế ghét mẹ từ đó. Cô bắt đầu gần gũi bố hơn. Còn ông Bao, trong hai đứa con, thâm tâm lo toan và yêu thương có vẻ nghiêng cho Huế. Ông nghĩ đều là con mình đẻ ra nhưng Huế lại xấu hơn Sanh. Là người cha, linh cảm cho ông biết Huế sẽ khổ. Từ hai tuổi, nó đã có tính để dành quần áo đẹp. Ăn thì một miếng thịt cắn năm xếp lại góc bát. Còn Sanh thì phóng túng từ bé. Trước bữa cơm, nó thường bốc thịt ăn chán, sau đó thì chỉ ăn lưng bát cơn chan với nước rau. Bước sang tuổi mười sáu, Sanh có rất nhiều bạn trai. Có nhiều hôm từ tuổi ấy đi chơi về, nó bước qua chỗ ông, mặt đó đầy mùi thuốc lá. Ông Bao biết, con bé này không vừa.

            Riêng Huế thì vẫn cặm cụi đan len, cắt áo, học thêm ngoại ngữ. Ông Bao luôn xem ý con gái. Có thời kỳ nó làm đầu, đánh phấn, sắm sanh quần áo, guốc dép. Nhưng ông Bao vẫn thấy nó ở nhà các buổi tối. Ít thấy nó đi chơi với bạn trai.

            Hai chị emm nhiều lúc cãi nhau. Ông Bao lên tiếng bênh Huế.

            Sanh bực bội gắt.

            – Bố cái gì cũng Huế! Huế! Huế!

          *

          Sanh là đại diện cho lối sống của thời nay. Một lối sống sục sạo, tìm kiếm, bằng mọi cách để đạt được mục đích. Cố tiễn biệt những cái ấu trí của mình qua mối tình đầu với anh chàng bạn học cùng lớp. Cái thời cô rất thèm muốn những cái hôn trộm bất ngờ mà chú bé (nay đã vào lính) trao cho cô. Đụng chạm ít lâu trong cuộc tình ngây thơ ấy Sanh đã phần nào hiểu được cái tư thế cô gái của mình giữa đời. Ai cũng khen cô có cái phom đẹp, khuôn mặt đẹp. Còn đôi mắt, không ít kẻ si tình đã ví: có khả năng nổi loạn. Không bao lâu những chàng trai ngờ nghệch như chú lính trẻ kia không còn đủ lý do để tiếp chuyện với Sanh nữa. Sanh muốn với cái thân thể hấp dẫn của mình, cô sẽ tiến thân vào chỗ đàng hoàng. Trong cái vốn tri thức hổ lốn của mình đúng sai chưa biết, nhưng cô thích lối sống của Giang Thanh. Một lối sống tự mình định đoạt, tự mình phấn đấu cho cuộc đời. Chỗ đứng hạnh phúc sau này. Cô đã đi qua nhiều gương mặt các chàng trai. Kẻ biểu hiện như anh hùng, liều lĩnh gan góc, hào phóng trong chi tiêu. Cũng nhiều anh rởm lắm. Kẻ biểu hiện trước sự xuất hiện của cô như một nhà thông thái với những đống thơ văn sáng loa lóa và những câu nói giống các nhà hiền triết… Số ít trong họ có người chân thực.

            Sanh bước qua họ như bước qua những dãy hàng hóa trong quầy kính. Và chưa tìm thấy thứ mà mình ưng thì cô đã bước đến chỗ cuối cùng. Cuộc đời buồn như vậy đấy! Không một ai làm vừa ý cô. Người có xe cúp thì lại có vẻ ăn chơi trác táng, hắn ta vồ vập lấy cô, cúi xuống hôn lên bàn chân Sanh, thậm chí có thể nhỏ nước mắt ròng ròng để cầu xin. Nhưng Sanh cũng hiểu, hắn sẽ vứt Sanh sau cái đêm đầu tiên đã chiếm lĩnh. Bởi thế nhiều lúc ông Bao và Huế cũng thấy Sanh buồn. Có hôm nó tỉa tót rất kỹ lưỡng, sắp đi thì dừng lại ở cửa. Nó dừng lại khá lâu, nhìn mãi ra cửa, rốt cục thở dài, bước trở lại nằm kềnh ra giường.

            Cả nhà không ai hiểu Sanh. Đặc biệt là Huế. Sau mỗi cuộc đi chơi về, Huế căng mắt soi em. Nó bước vào nhà là một luồng gió thơm ào theo. Qua cử chỉ của Sanh, Huế không biết nổi nó ở đâu về, đã làm gì trong những cuộc đi chơi. Cũng có lúc Huế lo ngại cho em. Có khi nó vấp ngã mất! Cô nghĩ như thế vì cô luôn cho rằng: làm gái cốt ở cái đức. Biết mình tốt, rồi sẽ có ngày một người nào đó hiểu ra. Do nghĩ như vậy nên cô bình tĩnh ở nhà, đan len thuê, tập cắt quần áo, ky cóp tý vốn cho cái gia đình nhỏ thân yêu của cô sẽ có được sau này.

            Huế không tâm sự chuyện đời được với Sanh. Sanh luôn luôn coi chị cổ lỗ, chẳng biết gì. Vì thế có lúc cần người trò chuyện, hứng lên thì Sanh kể cho Huế nghe. Còn đa số cuộc trao đổi giữa hai chị em là phân quét dọn cửa nhà. Hôm nay chị rửa bát thì em quét dọn cửa nhà. Nhiều hôm bận Sanh đổi các mảnh vải (cho chục ngày rửa bát) có lúc cô còn trả tiền cho Huế. Lúc đầu Huế thấy hơi chướng. Tất cả rồi cũng thành quen. Huế nghĩ: tội gì mà chả lấy. Suốt đời nó bận rồi mà hầu nó mãi sao?

            Ông Bao cũng không tâm sự được với Sanh. Ông hoàn toàn không hiểu gì cách sống của nó. Ông nghĩ theo kiểu an phận: Mỗi thế hệ đều có cách nghĩ của họ. Ngày xưa có ai bảo ông, ai dạy ông mà cũng làm tới chức chỉ huy sư đoàn? Trong nhà Sanh gần gũi với mẹ hơn cả. Nhưng cũng chỉ là sự gần gũi tương đối mà thôi. Nhiều ý kiến của Sanh, mẹ tán đồng. Tuy vậy, chị cũng bày cho con gái biết các kiểu làm bẫy ở đời.

            Xu hướng thân bố ngày càng rõ ở Huế. Đôi khi những công việc ông Bao mang từ đảng ủy phường về thu hút sự chú ý của cô. Huế giúp ông chép diễn văn, sửa nghị quyết, sáng tác các câu khẩu hiệu. Dưới con mắt của mẹ và Sanh thì bố và chị Huế vô tích sự. Việc đáng quan tâm là lờ đi, còn việc trời ơi đất hỡi thì chăm chỉ như điên. Song chẳng ai trong hai mẹ con dây vào chuyện của ông Bao và Huế.

            Chỉ có bà nội sống cách biệt hẳn. Bà rờ rẫm chuyển dịch trong căn nhà. Bà không hiểu mọi người nói gì. Bà không nghe được và cũng không muốn nghe. Bà sống bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn khác. Cái ngôn ngữ mà cuộc sống tươi đẹp, đầy sôi nổi của bà đã qua đi năm sáu chục năm trời. Mảnh đất ấy với hình ảnh làng xóm, cái đình, con đường ra đồng, ngọn đồi, những gương mặt người quen trong đó có chồng bà, các anh chị, ông bà, bây giờ đã chôn sâu trong hai thước đất. Cuộc sống ấy vẫn cựa quậy sống động và tươi xanh bên trong đôi mắt đã trắng xóa, đờ đẫn. Nhiều lúc bà lẩm bẩm nói chuyện với họ, những người đã chết. Đến mức Huế sợ quá phải gắt lên.

            Bà ơi! Bà nói gì? Cậu Ổi là ai hả bà?

            Hỏi bố, bố cho biết cậu Ổi là em ruột bà. Một người đàn ông đen thấp của dòng họ ngoại. Ông rất vui tính. Khi Bao lên mười gì đó, thì ông qua đời.

            Bà triền miên sống với các thế giới sôi động ấy. Một cái thế giới đã quá xa xưa vẫn tồn tại trong bà như một ấn tượng, một ám ảnh. Bà trò chuyện, bà thăm hỏi, bà đi cấy, đi cày với đoàn người đã câm lặng vì chết chóc rồi ấy. Ôi cái thế giới mới trong sáng thuần khiết và tốt bụng xiết bao. Ai cũng vui vẻ, đôn hậu, hồn  nhiên. Có bát canh riêu cua đồng cũng biếu nhau. Bắt được con rô trong buổi cày, về đặt lên than lửa nướng thơm phức. Có hôm tự dưng bà hét lên.

            – Ơ cái Lụa, sao để em chơi bờ ao, hả?

            Ông Bao giải thích cho các con rằng, Lụa là em gái bà nội. Có còn sống, bà cũng gần tám mươi. Bà Lụa chết từ thời kháng chiến chống Pháp. Do bà nội thơ thẩn như vậy nên Huế và Sanh nhìn bà cứ ghê ghê. Còn Bố thì cười xòa dùng một lời nào đó thật từ tốn để an ủi Huế.

            – Con ạ. Mọi sự trên đời này đều có lý lẽ của nó. Không việc gì ngẫu nhiên đâu.

            Nói rồi ông cười hiền lành. Cứ nhìn vào mắt Huế thấy hình như có điều gì đó vương vướng. Nếu không kể bà nội thì trong nhà, ngày này qua ngày khác, chỉ có hai bố con làm việc, chuyện trò. Càng ngày, Huế càng nhận ra mẹ có những dấu hiệu lạ. Chị Tươi trong cái độ tuổi hồi xuân có đôi má hây hây như con gái. Đôi mắt chị vẫn sáng và nhanh như đôi mắt người chưa tới ba mươi. Phần cơ thể biểu hiện sức sống của người đàn bà cứ lộ ra càng thêm rõ. Huế quan sát thấy mẹ về muộn và thường ăn sau cùng bữa ăn của cả nhà. Chị ăn ít cơm đến mức Huế nghi rằng buổi chiều tối, mẹ ăn thứ gì đó ở đâu đó. Càng ngày Huế càng thấy mẹ chú ý nhiều cho ăn mặc. Dạo này đi làm chị Tươi còn mang theo cả son phấn. Huế nói với Sanh.

            – Dạo này mẹ làm sao ấy Sanh ạ.

            – Chị thì đa nghi. Phụ nữ Hà Nội ra đường phải mặc quần áo đẹp, dùng tý phấn son, càng lịch sự chứ sao?

            Huế không dám tâm sự với Sanh nữa. Song cô ngấm ngầm theo dõi mẹ. Cô không ngờ mẹ cô lại vờ vĩnh giỏi như vậy. Trời ơi, con gái chưa chồng mới dùng đồ Thái Lan vậy mà từ áo con cho đến chiếc quần con của mẹ đều đồ ngoại. Bà còn dùng sang hơn Huế. Đồ của Huế cũ đến lúc lấm tấm rách cô mới thay, vậy mà mẹ, hơi cũ một tý, bà đã vò thành một nắm rồi vứt đi.

            Một hôm, Huế quyết đón đường xem sau giờ tan tầm mẹ mình đi đâu. Cô chọn một chỗ thật khuất sau cái quán nước chờ đợi, nôn nóng. Khi cái nhà máy rú còi ầm ĩ, cô căng mắt nhìn cánh cổng sắt từ từ tách ra như đôi cánh. Đám đông chen chúc qua cổng, phút đầu không có bà. Cho đến lúc lác đác những người về sau cũng mới thấy chị Tươi xuất hiện. Huế thấy mẹ vừa đi ra cổng vừa nhìn theo với vẻ theo dõi, cô vội thụt vào trong. Trời ơi tim Huế thót lên đau nhói khi chính mắt cô trông thấy mẹ vội vã về phía cột điện. Đang chờ ở đó là một người đàn ông bệ vệ, đi xe máy. Khi Huế vừa đến ngang chỗ ông ta đứng thì chiếc xe máy chở mẹ cũng từ từ lăn bánh.

            – Mẹ!

            Huế kêu lên một tiếng rồi nước mắt giàn giụa. Cô đạp xe theo hai người nhưng  cơ thể cứ rã ra, đầu gối bủn rủn. Một lúc sau, Huế dắt xe về, vừa đi vừa khóc tức tưởi.

          *

            – Bố ơi! Bố có bao giờ buồn không? Thật buồn ấy.

            – Có chứ. Buồn như là định mệnh của mỗi con người con ạ. Nhưng vì có buồn nên mới có vui.

            – Con muốn hỏi cụ thể trong nhà ta cơ. Chẳng hạn như buồn về con, về mẹ, về cái Sanh chẳng hạn. Những lúc mọi người không làm bố vừa ý.

            – Khi các con còn nhỏ, bố không vừa ý, có thể bố đánh. Nhưng đối với người lớn (nhà ta đã là người lớn rồi cả đấy) thì phải chỉ bảo phân tích đúng sai, nên hay không nên. Khi đã chỉ bảo rồi mà những người lớn trong nhà không sửa chữa được thì lúc đó bố mới thấy buồn.

            Huế không dám gạn hỏi thêm bố điều gì cụ thể. Cô chỉ còn biết chăm sóc bố, giúp ông làm việc, chuyện trò cho ông vui, bù vào cái mất mát mà cô dám chắc có thể bố đã biết.

            Một hôm, cái Sanh không được bình tĩnh như mọi khi. Dấu hiệu là khi về, nó có phần hấp tấp, mặt nhợt nhạt. Nó gấp quần áo rồi là im lìm như đang âm mưu gì đó. Mọi khi nó thường vừa làm, vừa hát, hoặc nói huyên thuyên những câu chuyện vui đùa. Con bé ít khi ngồi không một mình mà lại không nói cười hay trêu chọc, giễu cợt. Nó thường kể về một anh ngố, hoặc một anh si tình nào đó cứ lẵng nhẵng đạp xe theo tán những bài sáo rỗng. Sanh bắt chước rất giỏi. Cô có thể diễn lại như thật một sự việc, vì thế lúc chỉ có hai chị em, Huế vẫn cười đến vỡ bụng. Đôi khi vì những câu chuyện vui vẻ ấy mà Huế hiểu được trong ngày Sanh đã gặp ai và làm gì, đi đến đâu.

            Sanh có thói quen không kể cho người thân biết rõ ràng cụ thể những việc quan trọng của mình. Ấy là dạo Sanh nhiều bạn trai lắm. Đã có lúc nằm một mình, cô lẩn mẩn đếm phải tới hai mươi ba chàng. Nghịch ngầm, cô còn viết tên họ ra một tờ giấy, mới biết hai mươi ba khuôn mặt ấy là hai mươi ba chữ cái khác nhau. Cô lẩm bẩm tính toán. Nhưng đều hỏng cả! Sanh biết chắc điều đó vì cái đám đông ồn ào ấy không có người nào có thể hứa hẹn cho Sanh một tương lai tốt đẹp. Cô đã để yên cho đa số trong họ được hôn lên mặt mình, nhưng để ôm lấy cơ thể mình, một cái cơ thể mà Sanh rất có ý thức giữ gìn từng đường nét, thì chỉ một hai mà thôi.

            Thất vọng với đội ngũ ứng cử viên điệp trùng ấy, Sanh chủ trương tìm đến các sàn nhảy ở thủ đô. Con Thanh Lan bạn thân của Sanh cũng có cách nghĩ tương tự. Cả hai đều ham nhảy, nhưng cũng đều có cách muốn tìm bạn mới ở những chốn hào hoa phong nhã này. Họ mê những điệu nhạc đến mức âm thanh của các giai điệu vừa cất lên, máu và các cơ bắp đã giần giật. Sanh chưa thấy ở đâu, cái mặt tốt đẹp của con người lại được phô trương rõ như ở các sàn nhảy. Anh nào cũng lịch sự, hòa hoa, phóng túng, chiều phụ nữ. Nhưng thử bước nửa bàn chân vào xem, một nửa bàn chân vào cuộc đời thôi, cũng đủ điều kiện để nhận ra đa số họ cũng chỉ là những chàng trai rởm. Ôi thiên hạ thật là đông đúc mà cũng thật vắng vẻ xiết bao! Sanh kêu lên với Thanh Lan như vậy. Cả hai bắt đầu chán những cuộc tiếp xúc chốc lát giả dối và vờ vĩnh kia. Cuối cùng hai bạn chỉ còn biết đến sàn nhảy vì yêu cái trò chơi rất dễ nghiện ấy, chứ thực ra, ít hy vọng tìm được một người bạn tri kỷ, một chàng trai lý tưởng.

            Một hôm mệt nhoài sau những trò chơi và không khí xã giao hào nhoáng ấy, Sanh bảo Thanh Lan.

            – Tao khát nước quá mày ạ. Về nhà mày đi, nghỉ chốc lát.

            Rồi hai cô rủ nhau về nhà pha sữa chua uống rồi nằm kềnh xuống sàn đá hoa. Giữa lúc ấy thì từ trong phòng một chàng trai đi qua. Sanh còn nhớ như in một dáng người cao, mặt trắng bệch như suốt đời sống trong nhà. Anh im lặng và không thèm chú ý đến sự có mặt của hai cô gái.

            – Ai đó mày?

            – Kiên. Anh tao.

            – Y làm gì?

            – Phó tiến sĩ vật lý.

            – Thế cơ à?

            Sanh đã lật ngửa người lại, dấu hiệu của thái độ bắt đầu chú ý nghe chuyện.

            – Ông ấy ở trong nhà nhưng như trên trời rơi xuống ấy. Chẳng biết tý gì gọi là mùi đời (Thanh Lan cười ré lên khi so sánh anh mình với Quang cũng là phó tiến sĩ khoa học. Anh chàng gặp Lan bao giờ cũng thích đi dép cho cô, thích khoác áo, và thích cả rửa chân tay nữa). Thanh Lan lại nói về anh mình.

            – Sắp đi Pháp dạy một tháng cơ đấy. Vậy mà từ nhỏ đến giờ chưa có một cô bạn gái nào. Lỗi trước tiên vì Kiên không biết nói chuyện với bọn con gái. Trước mặt các cô, Kiên chỉ biết nghe, rồi hỏi gì nói nấy. Kiên không biết nói câu động viên hay xã giao là gì. Cũng chẳng biết xấu hổ nốt. Băm hai mùa thu rồi. Mẹ tớ sốt ruột quá, có hôm bà nói nhỏ với ông: Hay là nó ái nam ái nữ? Bố mình không tin! Ông cho rằng anh Kiên nhà mình yêu khoa học mà quên đi mọi chuyện. Còn tớ, tớ cho mẹ tớ có khi đúng. Ai lại hơn mười lăm năm làm thanh niên lại chưa hề được kề má một con bé nào đó. Phi lý! Có khi ông ấy yếu cái khoản ấy thật đấy.

            Hai cô bạn cười rũ ra.

            Giữa lúc đó, trong đầu Sanh đã hình thành những ý nghĩ tạo bạo. Chợt cô ngồi đậy vuốt tóc, sửa lại nếp áo. Cô nghĩ rằng cô sẽ thử xem Kiên thế nào. Cô sẽ đoạt bằng được Kiên với mọi giá nếu như lời nhận xét của cô em gái về Kiên không đúng. Được! Để xem! Sanh củng cố quyết tâm một lần nữa. Cùng lắm thì cũng chỉ mất vài tuần như Sanh đã từng trong các cuộc chơi vừa chơi vừa thăm dò bạn bè đó thôi. Thanh Lan làm sao hiểu nổi được Sanh lúc ấy nghĩ gì? So với Sanh, Thanh Lan là một cô gái hấp dẫn song tầm thường, không có cao vọng gì. Mà thời nay, chấm hết cái lối sống chờ may! Về mặt bản lĩnh Sanh gấp hàng trăm lần Thanh Lan cộng lại. Một cuốn sách nào đó chẳng viết: Muốn làm vợ một ông tướng thì phải có gan yêu anh lính binh nhì đó sao? Trong đầu Sanh đã hình dung ra cô bày đặt, chỉ bảo, định hướng cho Kiên, nhà khoa học trẻ vụng về thành ông chồng tốt chăm vợ và chăm con như thế nào.

            Hôm sau, nhằm lúc Thanh Lan đi vắng, Sanh đến chơi. Cô bước thẳng vào phòng của Kiên một cách rất tự tin. Cô luôn biết bọn con trai thích gì ở cô (cái lắc đầu này, khi cô hất tóc, lúc cô quay ngoắt lại, động tác cô duỗi một chân thẳng, khi cúi xuống găm lại dép, hoặc khi cô để lộ thái dương và cái cổ trắng, mà cô tin là rất đẹp). Lúc vào phòng, quả thật Kiên tiếp cô với thái độ rụt rè, thụ động. Sanh hỏi thứ gì, Kiên trả lời như vậy. Anh ta muốn tống khứ Sanh sau những câu hỏi bắt buộc ấy. Sanh bắt đầu đánh vào trí tò mò của Kiên bằng những hiểu biết mà cô đã chuẩn bị ít ngày qua về nước Pháp. Cái khôn ranh của một con đàn bà non đã mách bảo cho Sanh sưu tập được một số tư liệu trong sách báo nói về con người đất nước này. Đặc biệt tâm lý thanh niên trong các trường đại học. Lúc đầu Kiên trố mắt nghe. Anh không hiểu cô bạn trẻ này có điên không. Vừa đẹp lại vừa nói chuyện có duyên, Sanh đã thu hút được sự chú ý của Kiên. Nụ cười thiện cảm đầu tiên đã nở trên đôi môi của cái con người kỳ dị này, con người yêu khoa học như một tôn giáo. Cũng may dịp ấy là tuần phim nước Pháp được chiếu khá rộng rãi trên màn ảnh Hà Nội. Sanh bảo Kiên: Khi đến giảng bài ở nước người ta thì cũng phải biết qua nền điện ảnh nước ấy ra sao. Kiên cho ý kiến của Sanh hay hay. Giữa lúc Kiên còn đang lưỡng lự thì Sanh hứa tối mai, cô sẽ đem vé lại mời Kiên đi xem. Kiên đồng ý.

            Sanh bắt đầu gạt Thanh Lan sang một bên. Cô chẳng cần sự giúp đỡ của cô em gái chỉ có vẻ đẹp mã này. Tối hôm sau, hai người đi xem một cách vui vẻ. Sanh phải gợi ý, Kiên mới biết việc cần phải đưa cô tới cổng nhà trước khi anh về. Kiên phải xin lỗi rối rít. Đúng là gà tồ. Sanh mỉm cười nghĩ về Kiên như vậy. Buổi đi chơi đầu tiên Sanh chỉ cần đạt được bấy nhiêu là đủ.

            Ba ngày sau Sanh đến tham Kiên. Thiện cảm ban đầu đã nhấc Kiên khỏi chiếc ghế đã khiến anh trở thành tên mọt sách hạng nặng ấy. Anh chạy ra cửa và mỉm cười đón Sanh. Cái bối rối vui mừng thể hiện rõ trong hai đốm sáng sau cặp kính cận.

            – Em đến anh có vui không.

            – Có.

            – Thế hôm nay em chơi thăm anh được bao nhiêu phút.

            – Kiên thành thật.

            – Một tiếng nhé. Sau đó anh bận chút việc.

            – Vâng.

            Một tiếng, hai người chỉ ở trong căn phòng nhỏ. Sanh tìm lọ hoa cắm năm bông cẩm chướng cô mua cho Kiên. Kiên thích quá, anh cứ ngắm nghía lọ hoa như lần đầu tiên trong đời được nhìn thấy vậy. Sanh hỏi Kiên, anh nói cho biết chỉ có bạn trai tặng hoa cho Thanh Lan, chứ cô ấy ít khi mua hoa về nhà mình.

            – Nếu anh thích, một tuần em sẽ mua hoa tặng anh một lần.

            Kiên không nói gì: Sự mầu nhiệm trong cách cư xử của Sanh bắt đầu thấy rõ. Từ một anh chàng lạnh như tượng đá, Kiên biết nói cười, đùa vui. Dấu hiệu đầu tiên về sự bối rối, xấu hổ xuất hiện. Những cái đụng chạm nhỏ vào tay, vào tai nhau, cho đến hơi thở hai người cảm nhận được từ hai lồng ngực cứ làm ấm lên cái quan hệ nguội lạnh kia.

            Sau khi đến chơi lần thứ ba thì Kiên vứt hết những quy định nghiêm khắc của chính mình. Anh coi Sanh như một hiện tượng cá biệt. Sanh bắt đầu thường xuyên đưa Kiên ra phố: đến tiệm cà phê, qua sàn nhảy, đi xem phim. Một lần ở công viên, chính bản thân cũng bị xúc động, Sanh ngồi vào lòng Kiên.

            – Có thích không?

            Sanh hỏi lí nhí. Kiên gật gật. Sanh vít cổ Kiên xuống hôn. Với động tác vụng về, không hiểu hai bàn tay đã lần vào nhau, đưa đẩy như thế nào rốt cục Kiên đã chạm phải bộ ngực căng phồng non trẻ của Sanh. Cái bộ ngực cô ý thức giữ gìn nó, ngăn cấm các bạn trai trong các cuộc tình trước như bảo quản một thứ tài sản.

            Cô vui sướng đến nhòa lệ khi nhận thấy câu nói của Thanh Lan và sự nghi ngờ của mẹ Kiên hoàn toàn không đúng. Cái dấu hiệu đàn ông tạo một cảm giác rõ ràng, cụ thể, ấm cả một bên đùi Sanh. Lúc đó cô chan hòa hạnh phúc. Cả nhà Kiên ủng hộ hai người yêu nhau. Riêng Thanh Lan có vẻ lừng chừng.

            Sanh nghĩ cho kỹ đi. Có thể hạnh phúc với một người như anh Kiên được không?

            Chẳng có gì cần phải làm cho Sanh nghĩ ngợi cân nhắc thế. Với ý chí bạo liệt của bản thân, cô tin rằng Kiên sẽ là người chồng lý tưởng. Mặc dù khi nghĩ như vậy, Sanh cũng biết, đối với Kiên còn phải thay đổi nhiều lắm.

            Về đến nhà Sanh tuyên bố: ba tháng nữa sẽ lấy chồng. Cả nhà vô cùng ngạc nhiên. Riêng Huế thì không hiểu nổi. Cô hoàn toàn cho rằng em mình không chín chắn. Rồi lại mang cái bụng ễnh về cho xem. Mẹ thì thận trọng hơn.

            – Nó bao nhiêu tuổi con.

            – Anh ấy hơn con mười bốn tuổi mẹ ạ.

            – Chị Tươi giật mình quay lại.

            – Bao nhiêu?

            – Anh ấy hơn con mười bốn tuổi.

*

           Bà ốm. Nhà bận vì phải cắt nhau đến chăm sóc cho bà. Những ngày này ông Bao cố tỏ ra bình thường nhưng nỗi buồn không chối được hiện ra trong đáy mắt. Buổi sáng hôm ấy mẹ giắt xe ra ngõ đi làm, bố còn gọi giật lại.

           – Bà ốm, có lẽ chẳng sống được bao lâu nữa. Hôm nay đi làm em thu xếp về sớm nhé. Mọi khi cũng chả cần như vậy đâu. Nhưng hôm nay thì… em nên về sớm.

           – Vâng.

           Mẹ hài lòng gật đầu chấp nhận lời đề nghị của bố. Huế ít thấy bố nói nhỏ và trang trọng như vậy với mẹ. Mẹ về đúng giờ tan tầm được ngày thứ hai. Sang ngày thứ ba, mẹ lại về muộn như mọi khi. Huế thấy bố không nhắc mẹ nữa, nhưng ông có vẻ buồn. Đúng vào dịp bố lại phải tổ chức đại hội đảng bộ phường. Mỗi bận đi thăm bà nội về, ông lại chúi mũi vào viết báo cáo, kẻ, cắt dán khẩu hiệu. Huế lao vào giúp bố và giành phần đưa cháo cho bà.

           Một hôm Sanh về thì Huế bảo:

           – Hôm nay mày phải vào thăm bà đấy. Nhớ chưa. Chờ tao nấu cháo xong, sắp vào cặp lồng thì mày mang đi.

           Sanh vâng vâng dạ dạ. Cô tíu tít vì niềm hạnh phúc nên nhận lời đưa cháo và thăm bà một cách tự nguyện. Huế nấu cháo chín, nghiền thịt tan thành nước, rót vào cặp lồng. Lau thìa cho vào túi xong rồi cô đưa cho Sanh.

           – Thôi đi đi. Ngày cho bà ăn ba lần cơ đấy. Nếu có gì đột xuất về báo ngay nhé.

           – Vâng.

           Sanh hối hả giắt xe lên đường. Cô dự tính đến thăm bà xong thì đi công việc luôn. Cô sẽ ăn dọc đường cùng Kiên chỗ nào tiện. Một tháng nữa anh đi Pháp. Cô đã dặn anh phải làm những gì trong chuyến đi rồi. Hôm nay, anh đưa Sanh đi sắm một bộ đồ cho hợp với mùa thu của Hà Nội. Mười ngày nữa họ sẽ cưới.

           Bệnh viện vào giờ chiều thường đông người. Từ nhà Sanh có lẽ phải đạp xe đến ba cây số mới tới. Cô đưa xe vào chỗ gửi rồi tạt vào phòng hành chính của bệnh viện. Cô mới sực nhớ ra: cho đến hôm nay, cô cũng vẫn chưa biết tên bà nội. Lại còn thế nữa cơ. Cô bứt đầu bứt tai. Lâu nay cả nhà chỉ quen gọi là bà nội. Chứ bố mẹ, có lần nào nói tên bà cho Sanh biết đâu.

           – Chú ơi.

           Sanh túm một ông bác sĩ đi ngang qua.

           – Cháu muốn hỏi chú xem bà cháu nằm ở chỗ nào.

           – Bà nằm khoa nào và tên gì?

           Sanh ấp úng.

           – Bọn cháu chỉ quen gọi bà là bà nội thôi.

           Ông bác sĩ định ngắt lời Sanh. Sanh cố nhớ trong giây lát.

           Sau một trận cảm bà cháu nằm trên giường thở thôi. Bà hơn tám mươi và lú lẫn lâu rồi.

           – Bây giờ thế này nhé: Cô lên khoa tim mạch, đi hết các phòng, không gặp thì đến khoa thần kinh.

           Sanh làm theo chỉ dẫn của bác sĩ, nhưng cũng không thấy bà ở đâu. Vốn là một cô gái tháo vát, Sanh bèn chạy thẳng đến phòng y vụ. Sau khi xem lướt qua một số người bệnh vào ngày hai mươi, cô tìm thấy có một bà cụ tuổi tám mươi ba vào viện vì cảm sốt. Tên cụ là Lam. Chẳng lẽ tên bà nội lại là Lam? Sanh chạy thẳng xuống phòng cấp cứu, chỗ bà cụ Lam  đang ở đó.

           Sự phán đoán của Sanh hoàn toàn chính xác. Bà nội đang nằm im lìm trên giường bệnh. Giường bên có bệnh nhân đang truyền huyết thanh. Sanh rón rén đến bên bà. Ôi! Cô kêu lên. Ba ngày ốm mà người bà đã vơi đi chỉ còn da và xương.

           – Bà ơi… bà!

           Sanh gọi và khóc. Mấy giọt nước mắt vương xuống tay bà. Bà vẫn nằm im lìm trong giấc ngủ tuyệt đối yên tĩnh. Rồi Sanh ngồi xuống bên cạnh giường. Cô cầm cánh tay lạnh giá và xương xẩu của bà lay lay. Bà cũng không mở mắt. Sanh lau mặt rồi lấy cặp lồng cháo trong túi ra và đặt lên nóc cái tủ sắt nhỏ. Cô không kịp đút cháo cho bà rồi. Lúc nào tỉnh lại bà tự ăn vậy. Ở nhà thường bà vẫn xúc lấy cơm cháo để ăn. Thu dọn qua loa quanh giường bà nằm, rồi Sanh dắt xe đi làm nốt những công việc còn lại.

           Vào chính cái thời khắc ấy thì hai cha con ông Bao và Huế sắp sửa làm xong công việc chuẩn bị cho đại hội đảng phường. Huế giúp bố cắt lại dòng khẩu hiệu: “Sáng suốt lựa chọn những đảng viên ưu tú vào cấp ủy mới”.

           Ông Bao dự tính xong việc, hai bố con sẽ đến với bà nội. Huế nói với bố:

           – Con thấy bao nhiêu năm rồi người ta dùng cái khẩu hiệu này đấy bố ạ.

           – Vì nó còn là thủ tục mà con.

           Trăng đã lên. Ngoài thật xa có một lũ trẻ hát.

            Ai qua làng Trà

            Ai qua xóm Bến

            Ai lên Đồng Hến

            Ai xuống Mưu Câu.

           Mưu Câu ở đâu ai mà biết được. Tiếng hát thật xa xăm, như nghìn năm tiếng hát ấy vọng lên vậy. Mười giờ đêm thì hai cha con xong việc. Ông Bao rửa tay để cùng con vào viện với bà nội thì có người về báo: Bà đã qua đời. Khi ông Bao hấp tấp chạy đến thì cặp lồng cháo vẫn còn nguyên vẹn.